Văn Cao tên đầy đủ là Nguyễn Văn Cao,
sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 tại phường Lạch Tray,
quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng,
nhưng quê gốc ở thôn An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Xuất thân trong một gia đình viên chức, cha của Văn Cao vốn là giám đốc nhà máy
nước Hải Phòng.
Là một nhạc sĩ,
họa sĩ,
nhà thơ,
chiến sĩ
biệt động ái quốc Việt Nam. Ông là tác giả của ca khúc Tiến quân ca, quốc ca
chính thức của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam),
đồng thời ông cũng là một trong những nhạc sĩ có sức ảnh hưởng lớn nhất của nền
Tân nhạc Việt Nam. Ông được giới chuyên môn và
công chúng yêu nhạc đánh giá một cách rộng rãi là một trong ba nhạc sĩ
nổi bật nhất của nền âm nhạc hiện đại Việt Nam trong thế kỷ XX,
cùng với Phạm Duy và Trịnh Công Sơn.
Thuộc thế hệ nhạc sĩ
tiên phong, Văn Cao tham gia nhóm Đồng Vọng, sáng tác các ca khúc trữ tình
lãng mạn, đáng chú ý nhất là Bến xuân,
Suối mơ,
Thiên Thai và Trương Chi. Ông nhanh chóng trở thành một
trong những gương mặt tiên phong, nổi bật nhất của trào lưu lãng mạn trong lịch sử âm
nhạc Việt Nam, đặc biệt là để lại những dấu ấn mang tính khai phá
của ông trong tân nhạc Việt. Sau khi gia nhập Việt Minh,
Văn Cao chủ yếu viết về nhiều ca khúc mang âm hưởng hào hùng như Tiến quân ca, Trường ca Sông Lô, Tiến về Hà Nội,... vì vậy ông đã trở thành một nhạc sĩ
tiêu biểu của dòng nhạc kháng chiến.
Được nhiều người xem là một hình mẫu
thiên tài trong lịch sử văn nghệ Việt Nam, tài năng nghệ thuật đa dạng mang
tính tổng hợp cao giữa văn chương (thi ca) - âm nhạc - hội họa của Văn Cao đã
sớm có những thành tựu đột khởi ngay từ độ tuổi mười tám đôi mươi. Không được
đào tạo một cách thực sự chính quy, chuyên sâu cả về âm nhạc
và hội họa, những thành tựu của Văn Cao trong hai lĩnh vực này có
thể nói là bắt nguồn chủ yếu từ thiên năng nghệ thuật sẵn có của ông (nói theo
lời của nhà nghiên cứu âm nhạc Nguyễn Thụy Kha thì "Văn Cao là trời
cho"). Ông được nhiều người xem là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử
phát triển của văn hóa Việt Nam – ở nơi "dòng chảy"
của sáng tạo cá nhân một con người có sự "hợp lưu" xuyên suốt của ba
nhánh nhạc-họa-thơ trong gần như toàn bộ những sáng tác đa dạng của ông. Nhận
định về sự nghiệp văn nghệ của Văn Cao, nhiều người thường nhắc đến ông như một
nghệ sĩ
đa tài, thích "lãng du" qua những "địa hạt" (lĩnh vực) nghệ
thuật khác nhau. Dù không gắn bó liên tục quá lâu với một địa hạt nào trong số
đó nhưng đối với những "miền" nào ông đã bước qua thì Văn Cao cũng
đều lưu dấu không ít sáng tạo mang tính khai phá - mở lối dành cho những người
đến sau ông. Như nhạc sĩ Phạm Duy
sinh thời đã nhiều lần xác nhận, sự nghiệp sáng tác của ông chịu một ảnh hưởng
lớn từ những khai mở (về chuyên môn) và khích lệ (về tinh thần) từ Văn Cao, với
tư cách là một người bạn văn nghệ tri kỷ của Phạm Duy. Dù những sáng tác của
Văn Cao (đặc biệt là về âm nhạc và thơ ca) nói chung không thực dồi dào về số
lượng nhưng về mặt chất lượng chúng có ảnh hưởng mang tính định hướng và đặt
nền cho sự phát triển của đời sống văn nghệ Việt Nam hiện đại. Một số ví dụ
điển hình là vai trò đặc biệt quan trọng của ông trong sự định hình của thể
loại tình ca, hùng ca (trong đó nổi bật là dòng nhạc cách mạng) và trường ca trong âm nhạc cũng như thể loại trường ca trong thơ hiện đại Việt Nam. Tuy
nhiên những đóng góp về thơ ca và hội họa của Văn Cao vì nhiều lý do khác nhau
mà ít được nhắc tới hơn rất nhiều so với những thành tựu trong âm nhạc của ông.
Cuối
năm 1944,
ông tham gia Việt Minh, với nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác
một hành khúc. Văn Cao đã sáng tác ca khúc đó trong nhiều ngày tại căn gác số
171 phố Mongrant (nay là phố Nguyễn Thượng Hiền, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) và
đặt tên cho tác phẩm là "Tiến quân ca". "Tiến quân ca"
được in trên trang văn nghệ của báo Độc Lập tháng 11 năm 1944. Ngày 13 tháng 8
năm 1945,
Hồ Chí Minh đã chính thức duyệt "Tiến quân
ca" làm quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Văn Cao làm phóng
viên và trình bày cho báo Lao động. Năm 1946, Văn Cao được cử cùng
Hà Đăng Ấn chuyên chở vũ khí và tiền vào mặt trận Nam Bộ. Sau đó chính thức
được mời tham gia Hội Văn hoá Cứu quốc và được bầu là Ủy viên Chấp hành, Văn
Cao hoạt động ở liên khu III, phụ trách tổ điều tra của công an Liên khu và
viết báo Độc Lập. Đầu năm 1947, ông được cử phụ trách một bộ phận điều tra đặc
biệt của công an Liên khu 10 ở biên giới phía bắc. Tại đây ông được giao nhiệm
vụ kết nghĩa với vua Mèo để lập ra một phòng tuyến bảo mật chống sự tràn sang
của quân Trung Hoa Quốc dân Đảng khi thua trận. Ở Lào
Cai, Văn Cao còn mở một quán bar để làm địa điểm theo dõi. Tháng 3 năm
1948, Văn Cao được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm 1949,
Văn Cao thôi làm báo Văn Nghệ chuyển sang phụ trách Đoàn Nhạc sĩ Việt Nam.
Thời kỳ này, ông tiếp tục sáng tác các ca khúc nổi tiếng khác như "Làng
tôi" (1947), "Ngày mùa" (1948), "Tiến về Hà Nội"
(1949)... và đặc biệt là "Trường ca Sông Lô" năm 1947...
Ông mất năm 1995, một năm sau khi mất 1996, Văn
Cao được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh trong đợt trao
giải đầu tiên. Ông cũng đã được Nhà nước Việt Nam trao
tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huân chương Độc lập hạng ba, Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Hồ Chí Minh. Tên ông
cũng được đặt cho nhiều con phố đẹp ở Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng,
Huế,
Đà Nẵng, Nam Định,..
Phòng VHTT sưu tầm, soạn
và giới thiệu