Vũ Cao tên
thật là Vũ Hữu Chỉnh quê ở xã Liên Minh huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định. Ông sinh trong một gia đình nho học và hoạt động văn học khá sớm,
những năm đầu Chiến tranh Đông
Dương lần thứ nhất (kháng chiến chống Pháp) ông làm báo Chiến sĩ
ở Liên khu IV rồi làm phóng viên báo Vệ quốc quân, Báo Quân đội nhân
dân. Từ năm 1957, ông làm việc tại tạp chí Văn nghệ quân đội và trở thành chủ nhiệm
trong nhiều năm. Từ Sau năm 1975 ông giải ngũ, làm giám đốc Nhà xuất bản Hà Nội, phó chủ tịch Hội Văn học nghệ
thuật Hà Nội, chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam. Sau khi nghỉ hưu ông
sống ở Hà Nội. Ông là anh ruột của các nhà văn Vũ Tú Nam, Vũ
Ngọc Bình. Tuy được biết đến như là một nhà thơ với bài thơ Núi
Đôi nổi tiếng đã được đưa vào sách giáo khoa của Việt Nam nhưng Vũ Cao còn sáng
tác văn xuôi. Ông mất năm 2007 tại Hà Nội.
Vũ Cao được
tặng Giải
thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.
Một số tác
phẩm chính của ông:
- Sớm nay
(Thơ năm 1962)
- Đèo trúc
(Thơ năm 1973)
- Núi Đôi
(Thơ năm 1956)
- Truyện
một người bị bắt (Tập truyện ngắn năm 1958)
- Những
người cùng làng (Tập truyện năm 1959)
- Em bé bên
bờ sông Lai vu (Truyện năm 1960)
- Anh em
anh chàng Lược (Truyện 1965)
- Từ một
trận địa (Năm 1973)
(Bài thơ
Núi Đôi được Vũ Cao sáng tác dựa trên một câu chuyên có thật. Người con gái
trong bài thơ là Trần Thị Bắc một nữ du kích Việt Minh quê ở xóm Chùa, thôn Xuân Đoài
- Đoài Đông xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, thành
phố Hà Nội. Làng Xuân Đoài trước kia là thôn
Đoài (thôn phía tây) của làng Xuân Dục. Sau này làng tách ra, người trong vùng
quen gọi là thôn Xuân Đoài. Lời thơ kể về một chuyện tình yêu lãng mạn và bi
tráng của cô du kích và anh bộ đội Trịnh Khanh cùng quê.
Năm 1956,
ông Vũ Cao có thời gian công tác ở sư đoàn 312, đóng quân tại huyện Sóc Sơn,
bên cạnh núi Đôi. Khi sáng tác, ông chưa từng gặp người lính trong câu chuyện,
cũng không biết cô du kích ở núi Đôi đã kết hôn với người lính. Đám cưới của họ
diễn ra ở vùng tự do, gia đình lại phải giấu kín vì chiến tranh. Sau 20 năm kể
từ khi bài thơ được viết, tác giả Vũ Cao mới gặp người chiến sĩ trong chuyện
thơ của mình. Ông từng bộc bạch không hiểu sao lại có sự đồng cảm với người
lính Trịnh Khanh đến vậy.
Liệt sĩ
Trần Thị Bắc đi kháng chiến, được cử học lớp y tá ở xã Bắc Sơn,
huyện Sóc Sơn, thành phố
Hà Nội rồi quen anh bộ đội Trịnh Khanh
cùng quê. Tình yêu bùng cháy, họ ước hẹn sau khi chiến thắng trận Bắc Hồng (huyện Đông Anh, Hà Nội) sẽ cưới nhau.
Trần Thị
Bắc về quê được giao nhiệm vụ làm quân bưu và địch vận. Đêm 21 tháng 3 năm
1954, chị Bắc được giao nhiệm vụ đưa đoàn cán bộ ra vùng tự do để chuẩn bị trận
đánh lớn. Qua núi Đôi, đến ngòi Đầm Sen thì họ gặp phục kích. Chị hy sịnh Đồng
đội đưa chị lên chôn dưới chân gò Cầu Cồn mà nay thuộc xã Tân Minh,
huyện Sóc Sơn.
Hòa bình
lập lại, anh Trịnh Khanh mới về được quê nhà. Ở chiến trường, anh đã nhận được
hai bức thư. Một bức thư của vợ kèm theo một chiếc đồng hồ và một chiếc khăn
len kỷ vật. Một bức thư khác là của gia đình báo tin vợ anh đã hi sinh
Từ con rể,
anh Khanh trở thành anh cả trong gia đình người vợ đã mất. Chính mẹ chị Bắc là
người đã mai mối và hỏi vợ cho anh Khanh. Mọi người tin rằng đó cũng là ước
nguyện của hương hồn chị Bắc, chị vẫn mong anh thanh thản tâm hồn và gắn bó với
gia đình mình).
Phòng VHTT sưu tầm và giới thiệu