Những hoạt động thiết thực giúp dân xóa đói, giảm nghèo và các vấn đề cần quan tâm hiện nay
Giúp dân xóa đói, giảm nghèo, là một trong những chính sách lớn, có vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Thực hiện tốt công tác xóa đói, giảm nghèo, “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách”, giúp nhau vượt qua khó khăn là thể hiện truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc; đồng thời thiết thực góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Một số kết quả hoạt động giúp dân xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam
Những năm qua, công tác xóa đói, giảm
nghèo, thực hiện công bằng xã hội là một nội dung cơ bản, quan điểm nhất
quán, xuyên suốt của Đảng ta; được cụ thể bằng chính sách, pháp luật và
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước qua các thời kỳ.
Nhận thức sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nếu nước độc lập
mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý
gì”1. Bác chỉ rõ: Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm
nom đến đời sống của nhân dân. “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi,
nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ
có lỗi”2, “Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay
mấy cũng không thực hiện được”3. Bước sang thời kỳ quá độ xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Người chỉ rõ: “Mục đích của Chủ nghĩa xã hội là gì? Nói
một cách giản đơn, dễ hiểu là: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”4. Người yêu cầu
Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để “phát triển kinh tế và văn hoá”,
“làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được
đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong
tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ”5.
Giai đoạn nào cũng vậy, Đảng ta xác định,
con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể
phát triển. “Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng cải
thiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”6. Coi trọng
chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. “Mọi hoạt
động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên phải phục vụ lợi ích
của nhân dân”7. Cùng với đó, Quốc hội, Chính phủ đã và đang triển khai
hàng loạt chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng các khu
kinh tế mới, đảm bảo an sinh, công bằng xã hội trên địa bàn cả nước,
“giúp dân xoá đói, giảm nghèo cho đồng bào ở những vùng đất còn hoang
hoá, các xã đặc biệt khó khăn nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
đảo”8. Trọng tâm là phát triển hạ tầng và dịch vụ thiết yếu, thúc đẩy
sản xuất, nâng cao thu nhập cho các huyện nghèo, hộ nghèo và người
nghèo.
Kết quả xóa đói giảm nghèo đã tạo thêm cơ
sở vững chắc cho Việt Nam bảo đảm các quyền và lợi ích của người dân.
Nổi bật là về nhà ở, đi lại, đến năm 2020, cả nước đã xây dựng, củng cố
được hàng vạn ngôi nhà, căn hộ cho người nghèo, xóa bỏ hầu hết nhà tạm ở
các thôn, bản; 99% địa bàn đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng
biên giới có đường giao thông từ tỉnh đến huyện, xã. Về chăm sóc sức
khỏe, trên 90% người dân đều có thẻ bảo hiểm y tế và được các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe với chi phí thấp. Với hệ thống bệnh viện, trạm y tế và
dịch vụ y tế thông suốt từ trung ương đến cơ sở, Việt Nam đã khống chế,
đẩy lùi nhiều bệnh dịch nguy hiểm; tuổi thọ trung bình của người dân
tăng từ 64 tuổi trong thập kỷ 90 (thế kỷ XX) lên 73-75 tuổi năm 2020.
Những kết quả này được nhân dân ta ghi
nhận, được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Nhiều nước và tổ chức quốc tế
coi Việt Nam là điểm sáng văn hóa, thành công trong thực hiện mục tiêu
xóa đói, giảm nghèo bền vững. Từ thực tiễn đã tổng kết, chúng ta rút ra
được nhiều kinh nghiệm quý, có giá trị; đặc biệt là bài học để xóa đói,
giảm nghèo có kết quả phải kết hợp chặt chẽ các yếu tố: Tăng cường vai
trò lãnh đạo, chỉ đạo của Ðảng, Nhà nước; sự tham gia tích cực của Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính
trị cùng với các tầng lớp nhân dân, bạn bè quốc tế và sự nỗ lực vươn lên
của người nghèo, vùng nghèo.
Về phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ Đại hội
XIII và những năm tiếp theo, Đảng ta đã chỉ rõ: Tiếp tục thực hiện có
hiệu quả hơn chính sách xóa đói, giảm nghèo phù hợp với từng giai đoạn;
đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để bảo đảm giảm nghèo bền vững,
nhất là tại các huyện nghèo và các vùng đặc biệt khó khăn. Khuyến khích
làm giàu theo pháp luật, có chính sách và giải pháp phù hợp nhằm hạn
chế phân hóa giàu nghèo. “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an
sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người”9 và đề ra mục tiêu phấn đấu
giai đoạn 2021 - 2025, bình quân mỗi năm giảm từ 1,5% - 1,7% tỷ lệ hộ
nghèo, các xã đặc biệt khó khăn giảm bình quân 3,5% trở lên. Đến năm
2025 giảm 40% - 50% các xã thuộc diện khó khăn và giảm trên 50% thôn,
bản đặc biệt khó khăn; đồng thời khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi
với giảm nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giầu - nghèo
giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã
hội. Theo đó, “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất
lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân. Tiếp tục triển khai đồng bộ
các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững”10.
Một số giải pháp chủ yếu xóa đói giảm nghèo bền vững và đảm bảo an sinh xã hội
Một là, quán triệt và thực hiện Chỉ thị số
05-CT/TW ngày 23/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến năm 2030. Trước hết, phải
tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc
gia về giảm nghèo giai đoạn 2021-2025 và những năm tiếp theo, mà nội
dung là sự tiếp tục và mở rộng các chương trình xóa đói, giảm nghèo, kể
cả chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện,
xã, thôn bản nghèo. Cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền các cấp, các
ngành phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chương trình, coi đây là
nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị mình; chỉ đạo xây dựng kế
hoạch thực hiện chương trình một cách tích cực, khoa học, phối hợp chặt
chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan, ban, ngành và các tổ chức chính trị - xã
hội có liên quan.
Hai là, tăng cường công tác tuyên truyền
vận động, đồng thời ưu tiên bố trí đủ nguồn lực cần thiết đáp ứng yêu
cầu của chương trình; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, rút kinh nghiệm,
tìm ra cách làm phù hợp với điều kiện đặc thù của từng đơn vị, địa
phương, phát hiện những điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt
để kịp thời biểu dương, khen thưởng, nhân rộng, uốn nắn những lệch lạc,
ngăn ngừa những sai phạm trong thực hiện chương trình...
Ba là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp,
các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân phát huy những kết
quả đạt được và những kinh nghiệm tích lũy được, tiếp tục tham gia tích
cực, có kết quả, bằng những hình thức phong phú, đa dạng, sáng tạo vào
việc thực hiện chương trình “Cả nước chung tay vì người nghèo”, nhất là
tháng cao điểm Vì người nghèo (17/10 - 18/11), để các hoạt động vì người
nghèo thực sự trở thành phong trào thi đua yêu nước của quần chúng, thu
hút sự tham gia tích cực của đông đảo các tầng lớp nhân dân: cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, công
nhân, nông dân, trí thức, ở cả thành phố và nông thôn, ở mọi vùng, miền
của đất nước, đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế. Huy động và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội vào thực hiện mục tiêu xóa đói,
giảm nghèo. Kịp thời biểu dương, tôn vinh những tấm lòng nhân ái, hảo
tâm, thiện nguyện giúp dân xóa đói, giảm nghèo.
Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương
trình quốc gia vì người nghèo, để xóa bỏ một cách căn bản những nguyên
nhân sinh ra nghèo đói, xóa nghèo một cách bền vững, các cấp ủy, tổ chức
đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan nhà nước, các tổ chức
trong hệ thống chính trị ở tất cả các cấp từ trung ương đến cơ sở phải
tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tham gia thực hiện thắng lợi phương
hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước mà Ðại
hội XIII của Ðảng đã đề ra. Trong đó, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
chú trọng đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển
nền kinh tế số, xã hội số, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển
kinh tế nhanh, bền vững, để đến năm 2045 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp hiện đại. Trong tái cơ cấu nền kinh tế, cần thu hút đầu tư
và chuyển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, công nghiệp chế
biến nông, lâm, thủy sản về các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo để sử dụng, tạo việc làm, thu nhập cho lực lượng lao động
đông đảo, phần đông là còn nghèo trong vùng và phát triển nông, lâm, ngư
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn, phát huy
tiềm năng, thế mạnh của vùng. Trong thực hiện đột phá chiến lược về phát
triển cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cần hết sức
quan tâm đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông điện, nước,
thông tin liên lạc và phát triển giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí,
tăng cường dạy nghề cho vùng nông thôn, đồng bào các dân tộc thiểu số,
tạo điều kiện để đồng bào vươn lên phát triển sản xuất, vượt qua nghèo
đói, tiến tới làm giàu cho mình, cho đất nước. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ
xóa đói, giảm nghèo với nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
Năm là, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện
tốt các chính sách bảo đảm an sinh xã hội. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống
bảo hiểm xã hội, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả
năng bảo vệ giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là đối với người
nghèo, hộ nghèo vượt qua khó khăn hoặc rủi ro trong cuộc sống. Đồng
thời, “Xây dựng cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất
nước của mọi người dân Việt Nam. Phát huy tối đa nhân tố con người; con
người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự
phát triển”11.
Nhà nước tăng cường đầu tư và có cơ chế
chính sách để đẩy mạnh xã hội hóa, huy động các nguồn lực cho xây dựng,
nâng cao chất lượng hệ thống dự báo, cảnh báo thiên tai, dịch bệnh, các
phương tiện liên lạc, cứu hộ, cứu nạn ở vùng thường xuyên bị thiên tai,
bão lũ; hạn chế thấp nhất thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh xảy ra; đồng
thời huy động mọi nguồn lực hỗ trợ, giúp đỡ kịp thời các vùng, miền,
các tỉnh, thành phố, địa phương, các đối tượng bị thiệt hại do thiên tai
gây ra để vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống.
Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói, giảm nghèo là
một nhiệm vụ rất quan trọng, nhân văn và cao cả, phù hợp với truyền
thống, đạo lý của dân tộc; thể hiện bản chất tốt đẹp của xã hội Việt
Nam. Mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân cùng các tổ chức
xã hội hãy chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giúp dân
xóa đói, giảm nghèo, góp phần quan trọng vào ổn định chính trị, trật tự
an toàn xã hội; củng cố quốc phòng, an ninh; bảo vệ Tổ quốc trong giai
đoạn mới.
Cù Huy Điển
Thạc sĩ, Viện trưởng Viện Phát triển văn hóa dân tộc