Chương trình xóa đói giảm nghèo là gì? Kết quả đạt được và thách thức?
Xóa đói giảm nghèo đòi hỏi các dịch vụ công hiệu quả và hiệu quả, điều
kiện tiên quyết là các cơ quan công quyền ở cấp trung ương và địa phương
mạnh hơn và tốt hơn. Các cơ quan có trách nhiệm cung cấp dịch vụ cho
nông dân nhỏ và người nghèo nông thôn (bộ nông nghiệp và các cơ quan
chuyên môn hoạt động trong lĩnh vực nông thôn, bộ giáo dục và y tế, các
thành phố trực thuộc trung ương với trách nhiệm tăng lên do phân cấp,
v.v.) phải tăng cường kỹ thuật. và năng lực hành chính để đáp ứng trách
nhiệm của họ.
1. Chương trình xoá đói giảm nghèo là gì?
–
Chương trình xoá đói giảm nghèo( Anti-poverty program) được hiểu là
những chương trình được tổ chức với mục đích nhằm giảm bớt tình trạng
nghèo ở các vùng, các khu vực khó khăn. Chương trình xoá đói giảm nghèo
thường được tổ chức dưới dạng cho vay vốn, hỗ trợ tiêu dùng, hỗ trợ thu
nhập…( với mức lãi suất thấp) hoặc các dự án về việc phát triển nguồn
nhân lực, dạy nghề, tạo công ăn việc làm cho những người có hoàn cảnh
khó khăn, đặc biệt là những người ở vùng sâu vùng xa, vùng nông thôn,
vùng hải đảo, vùng kinh tế khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn.
–
Các chương trình chuyển tiền mặt là các khoản thanh toán trực tiếp bằng
tiền mặt cho những người sống trong cảnh nghèo đói. Các chương trình
như vậy thường hướng đến các gia đình với mục đích giảm nghèo và bất
bình đẳng đồng thời phát triển vốn con người của trẻ em khi chúng lớn
lên. Mặc dù có nhiều hình thức can thiệp chống đói nghèo khác, chuyển
tiền mặt là hình thức phổ biến nhất của chương trình mục tiêu chống đói
nghèo ở các nước có thu nhập thấp và trung bình.
– Các chương trình chuyển tiền mặt khác nhau đã được thiết kế theo nhiều cách khác nhau. Ví dụ: có nhiều cách khác nhau để thực hiện thanh toán, như chuyển khoản ngân hàng, séc hoặc chứng từ. Một
số chương trình cũng được thiết kế để các khoản thanh toán chỉ được
thực hiện khi gia đình tuân thủ các điều kiện nhất định (chẳng hạn như
tỷ lệ đi học nhất định hoặc tham gia vào các chuyến khám sức khỏe trẻ
em). Có bằng chứng mới nổi cho thấy các chương trình có thể có tác động
tích cực đến sức khỏe tâm thần của một người trẻ tuổi. Điều này có thể
là do nhiều yếu tố, đặc biệt là sự thay đổi trong các hành vi và kỹ năng
nuôi dạy con cái, giảm các tác nhân gây căng thẳng hàng ngày.
– Tuy nhiên, nhìn chung, chưa có nhiều
thông tin về các cơ chế mà các chương trình chuyển tiền mặt cải thiện
sức khỏe tâm thần cho thanh niên, cũng như về cách chúng có thể được
thiết kế để thúc đẩy tốt nhất sức khỏe tâm thần của giới trẻ và cuối
cùng là cải thiện cơ hội sống của họ.
2. Những kết quả đạt được và thách thức:
* Những kết quả đạt được:
– Kinh
tế vĩ mô không phân biệt đối xử với nông nghiệp và tạo môi trường thuận
lợi cho người sản xuất nông nghiệp: Điều này bao gồm việc quản lý tỷ
giá hối đoái (tiền tệ được định giá quá cao có tác động tiêu cực trong
lĩnh vực nông nghiệp và làm tổn thương các nông dân vừa và nhỏ sản xuất
hàng xuất khẩu hoặc hàng thay thế nhập khẩu); các chính sách ảnh hưởng
đến việc lựa chọn công nghệ (các biện pháp khuyến khích sử dụng công
nghệ tiết kiệm lao động có thể gây ra thất nghiệp và nghèo đói hơn); và
các mô hình phân bổ chi tiêu công có lợi cho khu vực thành thị với chi
phí của khu vực nông thôn.
– Cải
thiện khả năng tiếp cận đất đai của người nghèo ở nông thôn: Ở hầu hết
các quốc gia, đặc biệt là những nơi tập trung nhiều đất đai, phân phối
lại là điều kiện tiên quyết để xóa đói giảm nghèo trong một khoảng thời
gian hợp lý. Những cải thiện trong việc phân phối đất đai cũng có thể
đạt được bằng các biện pháp chậm hơn, chẳng hạn như các chương trình tín
dụng cho phép người không có đất hoặc gần không có đất mua đất và đánh
thuế lũy tiến để thúc đẩy việc bán đất khi quy mô trang trại đạt đến một
mức nhất định.
– Cải thiện khả năng tiếp cận của người
nghèo nông thôn với các dịch vụ tín dụng và khuyến nông: Một chính sách
phát triển nông thôn phù hợp với xóa đói giảm nghèo phải tăng cường khả
năng tiếp cận của người nghèo đối với tín dụng, cơ sở hạ tầng, dịch vụ
khuyến nông, đầu vào sản xuất và công nghệ phù hợp với sản xuất quy mô
nhỏ. Vì người nghèo nông thôn có xu hướng tham gia vào các hoạt động
nông nghiệp và phi nông nghiệp, nên các chương trình tín dụng và dịch vụ
khuyến nông nên hướng đến cả hai hoạt động này. Các chương trình tín
dụng dành cho nhóm người nghèo cần được quan tâm đặc biệt vì chúng có
chi phí và rủi ro thấp hơn, do đó có thể góp phần vào tính bền vững của
chương trình và tăng khả năng tiếp cận tín dụng của người nghèo.
– Cải
thiện cơ sở hạ tầng nông thôn: Đầu tư vào cơ sở hạ tầng (đường xá,
điện, nước uống, thủy lợi) không chỉ góp phần phát triển nông nghiệp mà
còn giảm chi phí giao dịch trong tiếp thị và tạo động lực cho sự phát
triển của ngành nông nghiệp, nhà máy chế biến, thương mại, v.v. Ngoài
ra, chúng còn cải thiện chất lượng cuộc sống ở khu vực nông thôn. Các tổ
chức địa phương có thể giúp thiết kế cơ sở hạ tầng nông thôn mang lại
lợi ích cho người nghèo và đáp ứng các nhu cầu xã hội cụ thể.
– Các
doanh nghiệp nông thôn vừa và nhỏ: Tăng trưởng kinh tế tạo ra việc làm,
nhưng việc làm không nhất thiết phải mở rộng cùng tốc độ với tốc độ
tăng trưởng. Ví dụ, nếu tăng trưởng nông nghiệp dựa trên sự ra đời của
công nghệ tiết kiệm lao động, thì số lượng việc làm sẽ tăng chậm hơn.
Tương tự, nếu tăng trưởng nông nghiệp chủ yếu diễn ra ở các phân ngành
có khả năng hấp thụ lao động thấp, thì tác động của nó đối với việc tạo
việc làm (và do đó giảm nghèo) sẽ giảm đi.
–
Một chiến lược quan trọng để thúc đẩy tạo việc làm trong khu vực nông
thôn là hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động ở khu vực nông thôn
(nông nghiệp, công nghiệp và các khu vực khác) vì họ có tiềm năng tạo
việc làm lớn nhất. Do đó, một môi trường kinh tế có lợi cho sự phát
triển của các đơn vị sản xuất này phải là thành phần trung tâm của chiến
lược chống đói nghèo. Môi trường như vậy đòi hỏi phải có các chính sách
kinh tế vĩ mô hỗ trợ và khả năng tiếp cận tín dụng với lãi suất hợp lý.
–
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (ở khu vực thành thị và nông thôn) có thể
đặc biệt dễ bị tổn thương trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế mở
hơn. Họ có nhiều khả năng sống sót qua quá trình chuyển đổi nếu nó diễn
ra một cách từ từ và nếu nhu cầu của họ được xem xét khi hoạch định các
chính sách kinh tế và thương mại.
– Nâng
cao chất lượng các dịch vụ xã hội cơ bản ở khu vực nông thôn: Những cải
tiến trong trường học nông thôn và cung cấp các dịch vụ y tế dự phòng
và y tế cơ bản nâng cao chất lượng cuộc sống ở các vùng nông thôn và
giảm động lực cho các gia đình nông thôn di cư lên thành phố. Tiếp cận
với nền giáo dục tốt hơn cũng làm tăng cơ hội vượt qua đói nghèo của trẻ
em nghèo khi trưởng thành.
Các dịch vụ y tế cơ bản và dự phòng ở
khu vực nông thôn có tác động lớn đến người nghèo, đặc biệt là phụ nữ.
Việc tiếp cận các dịch vụ này mà không phải trả phí hoặc với chi phí
danh nghĩa không chỉ cải thiện chất lượng cuộc sống của họ mà còn tăng
khả năng thu nhập thông qua công việc của họ.
* Những thách thức: Những thách thức đặt ra hiện nay: nhiều chương trình chống đói nghèo đã đạt được thành công hạn chế và đã xác định được những vấn đề sau.
–
Cần phân tích và đánh giá kỹ lưỡng các chương trình chống đói nghèo
trong quá khứ để xác định những gì đã hoạt động, cũng như xác định những
khó khăn, hạn chế và vấn đề. Người
nghèo nói chung thiếu sự tham gia của người nghèo ở các cấp độ khác
nhau trong các chương trình chống đói nghèo, ví dụ như trong việc xây
dựng và thực hiện các chương trình, cũng như giám sát và đánh giá các
phương pháp tiếp cận chương trình. Các chương trình chống đói nghèo
thường không xác định đúng nhóm đối tượng của người nghèo.
– Sử
dụng dữ liệu hoặc phương pháp thống kê sai để dự báo phân phối thu nhập
đã dẫn đến những giả định sai lầm ngay từ khi bắt đầu các chương trình
nhằm chống hoặc xóa đói giảm nghèo. Nhóm đặc biệt khuyến nghị
nhiều nghiên cứu có sự tham gia hơn (từ dưới lên) như một điều kiện tiên
quyết để xây dựng các chiến lược cho các chương trình chống đói nghèo
thành công. Điều này sẽ đảm bảo sự tham gia có ý nghĩa của người nghèo
vào các chương trình ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của họ. Nhóm cũng
khuyến nghị cải thiện khung pháp lý, đặc biệt là để bảo vệ người dân
tộc thiểu số, phụ nữ, người không có đất, v.v., khỏi bị phân biệt đối xử
và loại trừ cơ hội.
– Khi xem xét các ưu tiên phát triển của
cả các nước phát triển và đang phát triển, nhóm này đề nghị các chính
phủ cắt giảm chi tiêu cho vũ khí và chuyển các nguồn tài chính này sang
việc thực hiện các chương trình chống đói nghèo. Người giàu ở các nước
phát triển và người giàu ở các nước đang phát triển có nghĩa vụ đóng góp
vào mục tiêu xóa nghèo. Đánh thuế người giàu được coi là một trong
những cách thích hợp để tích lũy các nguồn tài chính cần thiết.
–
Đầu tư dài hạn, ví dụ như cơ sở hạ tầng, dịch vụ giáo dục và y tế, là
cần thiết để đảm bảo tăng trưởng kinh tế và điều kiện sống tốt hơn cho
mọi người và do đó, xóa nghèo bền vững. Các biện pháp can thiệp ngắn hạn
(như viện trợ lương thực) cũng cần thiết, đặc biệt để bù đắp tác động
tiêu cực của hạn hán, lũ lụt và các thiên tai khác do con người gây ra.
Tuy nhiên, điều cực kỳ quan trọng là không tạo ra sự phụ thuộc vào viện
trợ bên ngoài như đã từng xảy ra trong một số trường hợp trong quá khứ.
–
Tiếp cận đất đai và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác, cũng như các
cơ hội tín dụng và việc làm, là bắt buộc để đạt được mục tiêu xóa
nghèo. Các chương trình xóa nghèo phải được thiết kế cho các nhóm yếu
thế được nhắm mục tiêu cụ thể, chẳng hạn như người dân tộc thiểu số,
người không có đất, người nghèo thành thị, người thất nghiệp và phụ nữ.
–
Việc thực hiện các chương trình chống đói nghèo phải được cải thiện
đáng kể để sử dụng hợp lý các nguồn lực của chương trình, cho phép người
nghèo tham gia thực sự và để người dân mục tiêu hưởng lợi một cách bền
vững.
TS Đinh Thuỳ Dung - Nguồn báo: Tư vấn Pháp luật