Những truyền thống lịch sử lâu đời về mảnh đất và con người Vụ Bản
Về
đời sống tinh thần, Vụ Bản là mảnh đất còn bảo tồn được nền văn hóa đậm và bản
sắc dân tộc lâu đời. Văn học nghệ thuật đều phát triển, đa dạng, phong phú, phong
tục tập quán, tín ngưỡng cổ xưa còn bảo lưu trong dân gian. Nhiều làng còn lưu
tồn những tín ngưỡng nguyên sơ, đậm nét là tục thờ các thế lực siêu nhiên có
tác động đến đời sống, như thờ thần sông nước Long Vương, Thủy Hải, Đại Vương,
Thủy Tề, thần Độc Cước.
Điều này cũng chứng tỏ cư dân Vụ Bản
đã từng sinh sống ở vùng biển lâu đời - Họ còn thờ thần giếng nước, thần Đại
mộc, thần Mưỡu gắn bó thân thiết với cuộc sống hàng ngày khi xã hội còn nguyên
sơ. Nhưng phần lớn các làng thờ những người có công với nước, giúp dân mở mang
hương ấp, dắt dẫn dân sản xuất, mở mang văn hóa, và nhất là các vị thần bảo vệ
dân trước thiên tai địch họa, chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Các làng
thuộc Cố Bản (Đại Thắng), Mỹ Trung (Thành Lợi) thờ các thần Bắc Nhạc, Đông Hải,
Tây Hải là các con của Lạc Long Quân trong 50 người con xuống biển - nhiều làng
thờ các thần trông coi mùa màng như Thần Nông, Hậu Tắc, Câu Mang, thần mây mưa,
sấm sét - tục thờ nữ thần, thờ Mẫu rất đậm nét,
tiêu
biểu là thờ Mẫu Liễu Hạnh, trung tâm của đạo Tam Phủ, rồi Tứ phủ ở quần thể Phủ
Dầy và nhiều làng trong huyện.
Đạo Phật xâm nhập khá sớm - thời Lý -
Trần đã có nhiều chùa ở Vụ Bản, như chùa Long Xuyên ở Bối Xuyên, chùa Nam Lai ở
làng Bái. Chùa Phúc Lâm ở thôn Chiều là nơi tu hành của công chúa Thụy Bảo, vợ Bảo
Nghĩa vương Trần Bình Trọng. Chùa Nộn Sơn ở núi Hổ là nơi tu hành của công chúa
Huyền Trần, chùa Linh Quang ở Trình Xuyên là nơi vua Trần Thái Tông thường về
nghỉ ngơi và giảng kinh Phật. Xóm Chùa Hào Kiệt còn di tích một tháp cổ bằng
đất nung đời Trần cao hơn
chục
mét. Đến đời Lê, hầu như làng nào cũng có chùa. Nhiều chùa còn tồn tại bốn năm
trăm năm đến ngày nay như chùa Già Lâm (Trung Thành), chùa Linh Sơn (Kim Thái),
chùa Hội Lâm (Quang Trung), chùa Bịch (Minh Thuận).. còn nhiều dấu vết
nghệ
thuật kiến trúc đời Lê.
Đạo lão cũng thâm nhập
nhưng không sâu sắc, ít nhiều pha trộn tín ngưỡng nguyên thủy bản địa. Nội đạo
tràng còn một cơ sở ở Thanh Ý (Đại Thắng) là đạo giáo mang bản sắc dân tộc, thờ
các thần Độc Cước, Tam Bành, Huyền Đàn của người Việt
làm thần chủ,
Đạo Thiên
chúa vào đất Nam Định sớm nhất cả nước.
Năm 1585 các giáo sĩ Tây Ban Nha vào truyền đạo ở làng
Quần Anh, Ninh Cường (Hải Hậu) và ở Trà Lù (Xuân Trường) - Từ đó họ truyền đạo
sang các xứ khác, vào đầu thế kỷ XVII đã xâm nhập đất Vụ Bản qua nhiều đường tử
phía nam lên, lập xứ Kẻ Báng (Kim Thái), Kẻ Đại (Vĩnh Hào), Kẻ Thứa (Phú Thứ),
Kẻ Đội (Đồng Đội) và từ Thanh Liêm, Bình Lục sang lập xứ Đào CNSHR Duyên (Minh
Thuận). Tục thờ cúng tổ tiên dòng họ là tín ngưỡng phổ biến nhất trong dân gian,
là tập tục cổ truyền có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, uống nước nhớ nguồn, phát huy
truyền thống gia đình, dòng họ, giúp đỡ nhau, đoàn kết thương yêu nhau. Hàng
năm các họ tổ chức lễ họ để con cháu đến bái yết tổ đường, vui chung gặp mặt
nhận họ hàng thứ bậc. Lễ hội các làng thường có tế phối hương tổ tiên các dòng
họ, những người đầu tiên đến khai dân lập ấp như làng Quả Linh vào đám tháng 2
có rước thập bát gia tiên tổ cùng dự. Cộng đồng làng xã liên kết các dòng họ
lại với nhau, nhắc nhớ nhau trong họ ngoài làng. Làng có thành hoàng, có đình
làng, đền làng thờ các phúc thần, có cây đa giếng nước của chung gắn bó dân
làng lại với nhau. Đó là đặc điểm độc đáo mang bản sắc dân tộc của làng quê
Việt Nam. Làng Lập Vượng thờ tướng quân Cao Hựu thời Hùng Vương làm thành
hoàng; đồng thời lại có đền thờ bà Nguyễn Thị Ngọc Trung một nữ quan giáo
phường dạy múa hát trong cung thời Lê làm phúc thần.
Đạo Nho
một thời là chính đạo của chế độ phong kiến, tạo nên lớp người chính nhân quân
tử cùng với giáo lý Khổng Mạnh để giữ vững trật tự xã hội. Đó là ý thức hệ tư
tưởng phong kiến ăn sâu vào tiềm thức của nhiều thế hệ. Ở huyện có Văn Miếu thờ Khổng Tử đặt ở làng Thái La, xây dựng bằng đá
chạm, có tượng Khổng Tử, các bậc tiên hiền, hàng năm các bậc văn thân hàng
huyện đến tế lễ. Các tổng, các làng đều có văn chỉ để hội Tư văn hàng tổng,
hàng xã hàng năm đến tế lễ (như các làng Bách Cốc, Bảo Ngũ, Phú Thứ vẫn còn gìn
giữ được văn chỉ). Lễ hội các làng thường tổ chức vào mùa xuân và mùa thu. Các
trò đấu vật, đấu võ, đấu voi, chơi cờ, chơi đu... hầu như làng nào cũng có.
Ngoài ra mỗi làng còn có trò chơi riêng Hội thi nấu cơm ở Thượng Linh, Bối La,
Thái La, Bối Hạ,.. Làng Xứng (Đắc Lực) có hội kết rơm thành kiệu, cổng chào, tứ
linh... Hội hoa trượng kéo chữ bằng gậy, hội ở Phủ Dầy do Trịnh Thái Phi Trần
Thị Ngọc Đài đề xướng, đông tới hàng trăm người biểu diễn, làng Quả Linh ba năm
một lần vào đám (các năm Dần, Thân, Tị, Hợi) kỷ niệm nhà Trần đánh thắng quân
Nguyên mà làng Gạo có đội thuyền lương phục vụ chiến trường, gọi là hội Thái
Bình xướng ca. Làng Hồ Sơn có lệ bầu quan một ngày, tổ chức thi đọc chúc ước
trong hội - làng Bịch, làng Phú Lão, làng Ngói có trò chơi múa rối và múa rối
nước.
Vụ Bản là một miền quê giàu ca dao, tục
ngữ, dân ca, nhiều truyền thuyết dân gian, truyền thuyết lịch sử - câu tục ngữ
Bánh Gôi, xôi Báng, rượu Hầu" tương truyền có từ thời vua Hùng dựng nước -
hát chèo là hình thức văn nghệ chủ yếu vui diễn các dịp hội hè - làn điệu chầu
văn kết hợp với múa (dân ca - dân vũ) được sử dụng nhiều trong hoạt động tín
ngưỡng. Đây là hình thức múa tôn giáo mà múa, hát, nhạc đã tạo niềm phấn khích
đưa con người hợp nhất với thần linh, cũng như thần linh thông qua các động tác
múa mà tái sinh sống động trong con người, Nhiều làng có tục hát ví, giao
duyên, phần lớn ở các làng có phường Vải như Lập Vượng, Quả Linh, điệu hắt phổ
biến là trống quân. Thời Là Trưng Hưng, làng Lập Vượng có bà Nguyền Thị Ngọc
Trong hắt hay múa đợp, được với vào làm Nữ quan ở Ty giáo
phường chuyện dạy hát múa cho cung nữ. Bà Trần Thị Ngọc
Đài
người làng Thông Khê, được chúa vời vào phủ múa hát, trở
thành Vương phi vợ chúa Trịnh Tráng.
Nhiều
chuyện cổ dân gian về núi, về sông, về truyền thuyết hình thành làng xã, về đạo
lý làm người, về tình yêu đôi lứa, là những huyền thoại đẹp như truyện mẹ con
nhà Ngọc trên đinh cây Đa Đôi, truyện thần Rết núi Gôi tỉnh giấc khi cụ Nghè Kính
mở chợ, truyện về thần Lữ Gia người Châu Ái làm thừa tướng nước Nam Việt chống
nhà Hán xâm lăng tử trận ở núi Gôi mà "làng Gôi thờ đầu, làng Hầu thờ
thân". Nhưng tiêu biểu hơn cả là "Thiên Bản lục kỳ" suốt mấy
trăm năm nay, tồn tại cùng với "Nam Xang tứ quái" là biểu tượng văn
hóa dân gian của miền Sơn Nam Thiên Bản lục kỳ kể về những sự kỳ lạ của sáu
nhân vật kỳ tài trên đất Vụ Bản, lưu truyền trong dân gian dưới dạng truyện cổ.
Các thần phả, sự tích còn lưu giữ cũng viết theo dạng này. Người kể chuyện kế
tiếp nhau đời này sang đời khác thường thêm thắt tình tiết làm huyền thoại thêm
phong phú, ly kỳ, nhưng cốt lõi câu chuyện vẫn giữ nguyên. Đó là truyện thần
Tam Ranh hay Tam Bành sừng sỏ sắt thờ ở làng rèn Bảo Ngũ là đại tướng cô hồn
dám đánh cả Thành hoàng các làng, đánh đuổi ma tà quỷ quái hay sách nhiều, hâm
hại nhân dân. Chuyện về thần Cường Bạo dám chống lại trời, mưu trí đánh bại cả
thiên lôi, thủy thần nhà trời. Chuyện về Trạng lường Lương Thế Vinh là thần
đồng làng Hương, học rộng tài cao, thông minh hơn người, có tài trong nhiều
lĩnh vực, hết lòng phò Vua giúp nước khi ông mất, vua Lê Thánh Tông thương
tiếc, làm thơ nôm đánh giá ông rất cao:
Khuất ngón tay than tài cái thế
Lấy ai làm trạng nước Nam ta!
Truyện về
Mẫu Liễu Hạnh người làng Kẻ Dầy, ba lần sinh hóa, tài giỏi hơn người được coi
là "Mẫu nghi thiên hạ" (bà mẹ mẫu mực trong thiên hạ).
Một người
phụ nữ tài ba nữa là bà Trần Thị Ngọc Đài hát hay múa giỏi có nhiều công lao
giúp dân làm ăn, tổ chức các trò vui chơi dậm nét tính chất văn hóa, dân tộc.
- Người
tài giỏi cuối cùng là Quận Điền, em bà Ngô Thuận Phi, người làng Bảo Ngũ, mưu
trí dùng nhiều phép lạ giúp dân đắp đê chống lụt, trừ yêu quái phá đê, bảo vệ
mùa màng. Tình tiết các truyện đan xen nhau tạo nên bức tranh nhiều màu sắc của
cuộc sống, có đấu tranh chống thiên nhiên bảo vệ sản xuất, đấu tranh chống xâm
lược bảo vệ quê hương đất nước, có đạo lý làm người, trọng người hiền tài, đề
cao tình nghĩa vợ chồng, tình yêu chung thủy, tình mẹ con anh em ruột thịt, có
quan niệm tín ngưỡng đơn sơ mộc mạc chất phác, có cuộc sống văn hóa tinh thần,
mưu trí sáng tạo trong cuộc sống - sức sống vĩnh hằng của Thiên Bản lục kỳ là ở
chỗ đó.
Nằm trong
vùng châu thổ Sông Hồng, mảnh đất Vụ Bản còn lưu giữ nhiều dấu ấn gắn liền với
sự phát triển của nền văn minh Đại Việt. Có gần trăm công cụ đồ đá mài bao gồm
nhiều hình dáng kích cỡ khác nhau, trình độ chế tác khá tinh xảo trên đá cứng.
Đồ gốm cũng vậy, có hàng chục loại hoa văn trang trí các họa tiết hình học,
giọt nước, lượn sóng, cánh chim đối xướng nhiều lớp khác biệt. Điều đó chứng tỏ
cư dân nguyên thủy ở đây đã có trình độ thẩm mỹ cao. Hai trống đồng đào ở chân
núi Gôi năm 1903 có niên đại cách đây trên hai ngàn năm thuộc văn hóa đồ đồng
Đông Sơn thời Vua Hùng, mà kích thước và những họa tiết hoa văn, khắc trên
trống đồng cho thấy kỹ thuật đúc đồng khá cao của cư dân thời đó. Rải rác trên
núi và phía tây miền thượng huyện có nhiều gò đống còn lưu tồn những mộ cổ Hán
thời bắc thuộc, từ Lục triều đến Tùy Đường cách đây 13 - 14 thế kỷ, Hiện có
nhiều phế tích của hành cung Ứng Phong ở bến Đền làng Hướng Nghĩa (Minh Thuận) nơi
các vua Lý - Trần
làm lễ tịch điền, các kho lương thời Trần-Hồ ở các làng
Kho, Bịch, Đống Lương, lành Cổ Ngựa, Môn Nha, Hậu Nha (Hiển Khánh) còn nhiều
viên gạch cổ lớn đúc nổi hoa văn thời Trần, đặc biệt đã khai quật được một ngôi
mộ thời Trần chôn theo mộ
hình dinh thự của quý tộc Trần bằng đất nung, Ở xóm chùa Giáp
Nhì Hào Kiệt cũng đã tìm thấy phế tích một tháp ghép bằng gạch nung cỡ lớn có
hoa văn đẹp, cao hơn mười tầng, kiểu dáng Trần, làng Bách Cốc có hai khu lăng
mộ bằng đá của Phương
Quận công và bằng gạch của Bái quận công thời Lê thế kỷ
XVII - XVIII. Hai ngôi mộ ướp xác đầu thế kỷ XVIII là bà Quận phu nhân Phạm Thị
Nguyên Trân ở Vân Cát và bà Ngô Thuận Phi vợ chúa Trịnh Căn ở Bảo Ngũ. Vụ Bản
hiện bảo tồn được một hệ thống bia đá thời Hậu Lê - Mạc có nhiều loại hình độc
đáo. Bia chùa ở Bách Cốc ở thời Mạc thế kỷ XVI - Bia chùa Ngô Tiên (Đại Lại),
chùa Hội Lâm (Bảo Ngũ) có niên hiệu Hoàng Định đầu thế kỷ XVII, bia đềnGạo cuối
thế kỷ XVII là một tấm bia vuông đẹp. Đặc biệt Vụ Bản còn lưu giữ ba tấm bia
hình trụ thân tròn, đỉnh là 1 bông sen tỏa xuống, có niên đại thời Lê hiếm thấy
trong cả nước. Độc đáo là Vụ Bản còn 4 bia chân dung, tạc chân dung người đã
khuất để thờ, đẹp nhất là bia tạc chân dung bà Bùi Thị Lư mẹ Phương quận công ở
chùa Hưng Thọ có niên đại 1686.
Về kiến
trúc điêu khắc, còn bảo tồn được nhiều công trình thời Lê - Nguyễn, Hàng chục
ngôi đình cao to, các nhà tiền tế, bái đường tám mái cổ kính, như đình Hướng
Nghĩa, đình Tiểu Cốc, đình Tổ Cầu, đình Bảy Giáp (Thái La), đình ông Khổng (Kim
Thái), đình Lập Vượng v.v.. ác bái đường ở đền Lương Trạng nguyên, đền Hội Bảo
Ngũ, chạm khắc đẹp. Nhưng tiêu biểu nhất cho kiến trúc Nguyễn ở miền Bắc nước
ta là quần thể kiến trúc Phủ Dầy, điển hình là Phủ Tiên Hương, phủ Vân Cát và
lăng Mẫu Liễu Hạnh, Các nhà kiến trúc đã biết ứng dụng kinh nghiệm của cha ông,
có bổ sung, sáng tạo xây dựng nên loại hình kiến trúc thờ cúng có giá trị này. Một số đền chùa như: chùa Si, đền Hồ Sen, đền
Cồn Dâu, đền Phú Thứ, đền làng Vàng, đền Võng Cổ, miếu Cả Thái La v.v... Còn
nhiều mảng chạm bong và những bộ cánh cửa chạm bong các ổ rồng, tứ quý vào thế
kỷ XVII rất quý giá. Một loại hình văn hóa đặc biệt nữa là các sắc phong, Vụ
Bản còn lưu giữ hơn ba trăm sắc phong của các triều đại Lê - Nguyễn Tây Sơn và
nhà Nguyễn, trong đó có hơn một
trăm sắc phong thời Lê thế kỷ XVII - XVIII và Nguyễn Tây
Sơn (Quang Trung, Cảnh Thịnh) - Vụ Bản còn 8 chuông quý, trong đó có 1 chuông
thời Lê Vĩnh Khánh và 7 chuông thời Tây Sơn, vào loại to nhất. Ngoài ra Vụ Bản
còn lưu giữ hơn một trăm quyển Ngọc phả và hương ước của các làng. Điều đó nói
lên Vụ Bản có một kho tàng văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng quý giá, ít
địa phương có được.
Vụ Bản là
mảnh đất văn vật của miền Sơn Nam có truyền thống hiếu học, thời nào cũng có
người đỗ đạt cao, có danh vọng lớn. Thời Trần, làng Cao Phương (Liên Bảo) có
hai người xuất thân từ khoa cử, ông Đinh Văn Lan giữ chức hành khiển (Thượng Thư),
ông Đồ Văn Biểu giữ chức Đô Ngự sử đài. Làng An Cự (Đại An), có gia đình ông Vũ
Vĩnh Trinh, hai cha con đều đậu tiến sĩ. Vũ Vĩnh Trinh đậu tiến sĩ năm 1429 đời
Lê Thái Tổ, làm Hàn lâm viện đại học sĩ, bí thư giám học sĩ trông nom kho sách của
nhà vua, xin vua in nhiều bộ sách quý ban cho các quan lại học tập, Ông còn dạy
học ở Quốc Tử Giám - con là Vũ Duy Thiện đậu tiến sĩ năm 1478 - cùng khoa này
có Thám hoa Trần Bích Hoành người làng Vân Cát, học trò Trạng nguyên Lương Thế Vinh,
Làng Cao Phương có Lương Thế Vinh đậu trạng nguyên khoa Quý Mùi (1463) và cháu
ngoại là Dương Xân đậu tiến sĩ năm 1595 cùng khoa với Trạng Nguyền Bỉnh Khiêm đời
Mạc.
-Lương Thế Vinh là một ông Trạng toàn năng tài
giỏi, một nhà chính trị xuất sắc đứng đầu viện Hàn lâm, giữ việc văn thư cho
nhà vua, lo việc bang giao với nước ngoài, gần gũi nhà vua luận bàn việc nước. Ông
dạy học nhiều năm ở các trường cao cấp của Nhà nước như Quốc Tử giám Tú Lâm
cục, Sùng Văn Quán. Ông là một nhà toán học giỏi, đã soạn Bộ Đại thành toán
pháp, cuốn sách giáo khoa toán đầu tiên ở nước ta. Ông lại rất tài hoa, nghiên
cứu sâu nghệ thuật chèo, viết cuốn Hý phường phả lục; lại giỏi âm nhạc cùng
thân nhân trung Đỗ Nhuận soạn bộ Đồng Văn và Nhã nhạc dùng trong quốc lễ. Ông
cũng là người quan tâm phát triển kinh tế, mở mang đường sá, chợ búa giao lưu
buôn bán. Lê Quý Đôn đánh giá ông là "Con người tài hoa danh vọng vượt
bậc". Ổng có nhiều học trò giỏi như Thám hoa Trần Bính
Hoành người làng Vân Cát, tiến sĩ Nguyễn Tất Đại người
Thái Bình, bảng nhãn Lương Đắc Bằng người Hội Triều (Thanh Hóa) và tiến sĩ Trần
Xuân Vinh, người làng Bảo Ngũ. Đậu tiến sĩ, thời Lê còn có Nguyễn Sùng Nghê
người làng Hiển Khánh, Bùi Tân người làng Xuân Bảng, Trần Kỳ người làng Tiên
Hương, Phạm Hùng người làng Hổ Sơn, Phạm Duy Chất người làng Ngõ Trang, Phạm
Đình Kính người làng Vĩnh Lại. Thời Nguyễn có Nguyễn Văn Tính làng Vĩnh Hào đậu
tiến sĩ và 3 phó bảng là Vũ Thiện Đễ làng Bách Cốc, Phan Thiện Niệm làng Quả
Linh và Đỗ Văn Toại làng Nguyệt Mại (Đại Thắng). Trong số 87 tiến sĩ của 10 huyện
trong tỉnh Nam Định, Vụ Bản đã có 16 vị, chiếm 1/5 tổng số toàn tỉnh. Nam Định
có 5 Trạng nguyên thì Vụ Bản có 1 Trạng nguyên.
Vụ Bản còn
hai danh nhân có biệt tài là Luân quận công Vũ Chấn người làng An Cự là một
kiến trúc sư tài giỏi ở thế kỷ XVII - Ống là người đã chỉ đạo xây dựng hàng
chục đoạn đường quan lộ và nhiều cầu lớn, chỉ đạo xây dựng nhiều điện đài trong
hoàng cung phủ chúa, tiêu biểu là Điện Nam Giao để tế trời đất, xây dựng đền
Quán Thánh đúc tượng đồng Trấn Vũ nặng 6 tấn - Khi ông mất, nhà Vua cho tạc
tượng lập miếu thờ trơng đền Quán Thánh - Ông Nguyễn Thuyên đậu cử nhân thời
Minh Mạng là một nhà giáo dục tài giỏi, 17 năm dạy học, ông đã tiến từ Đốc học
một tỉnh lên Tế tửu Quốc tử giám, đứng đầu trường Đại học Quốc gia ở Huế. Cuộc
đời dạy học của ông đã đào tạo được 3 thám hoa, 17 tiến sĩ, 9 phó bảng và 23 cử
nhân. Ông là một sĩ phu uyên bác nhưng lại rất khiêm nhường, không thích nói về
danh vọng, đạo lý, sống cuộc đời thanh bần lạc đạo, gần gũi quần chúng.
Trong sự
nghiệp đấu tranh bảo vệ đất nước chống ngoại xâm, giữ gìn sự thống nhất, Vụ Bản
cũng xuất hiện nhiều tướng lĩnh tài ba, nhiều gương chiến đấu quật cường, hy
sinh bất khuất, tô thắm thêm truyền thống anh hùng của dân tộc. Ngay từ thời
Vua Hùng dựng nước, khi giặc Ân sang xâm lược nước ta, làng Hổ Sơn có phó tướng
họ Hoàng và làng Hạnh Lâm đã có hai anh em Minh Tôn, Minh Gia theo Phù Đổng Thiên
vương đánh giặc, lập nhiều chiến công. Tướng quân Hoàng Tề làng Lập Vũ, các
tướng Câu Mang làng Định Trạch, Bạch Mã Linh Lang làng Thọ Trường (Tân Khánh)
đã giúp Vua Hùng đánh giặc, bảo vệ biên cương.
Đầu công
nguyên, giặc Hán đô hộ nước ta, thị hành nhiều chính sách hà khắc - nhân dân
khắp nước đều nổi dậy chống lại. Làng Vũ Nữ có Mai Hồng, làng Vậy có Đỗ Thị
Dung và Đỗ Văn Quang làng Thượng Linh, (Đại Thắng) có Lê Thị Hoa, làng
Lại Xá (Hiển Khánh) có 4 anh em Chiêu Trí, Thiên Thạc, bà
Kỵ và bà Độ đều chiêu mộ nghĩa sĩ, tích trữ lương thảo nổi dậy chống Tô Định,
báo thù nhà, đền nợ nước. Khi nghe tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Mê Linh họ đều
kéo quân sĩ về tham gia chiến đấu, Lại có nhiều tướng lĩnh của bai Bà Trưng về
đất Vụ Bản chiêu mộ, huấn luyện quân sĩ, lập căn cứ rồi kéo quân về tham gia
chiến đấu tiệu biếu như lộc Công Chủ của Hai Bà Trưng về làng Hạ Xá lấy nàng
Phương Dung Đào Thị Quá và Hoàng Đức Công về làng Bảọ Ngũ xây dựng căn cứ huy
động thợ rèn đúc vũ khí, Bạch Đẳng Cao Lôi về làng Si chiêu tập huấn luyện quân
sĩ, Lại có nhiều người nghe tin Hai Bà khởi nghĩa đã trực tiếp ra đầu quân trở
thành một tướng giỏi như Trần Báo Đạo làng Thượng Linh, người đã giải phóng
vùng Nhật Nam, giữ yên bờ cõi phía nam trong thời Hai Bà lập nước Hùng Lạc.
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thắng lợi, đã có nhiều công lao đóng góp của quân
dân Vụ Bản. Khi Mã Viện đem quân sang
xâm lược, các tướng lĩnh và nghĩa sĩ Vụ Bản lại lên đường
chiến đấu ngoan cường, anh dũng hy sinh, tuẫn tiết theo Hai Bà Trưng. Đỗ Thị
Dung, Hoàng Đức Công đem quân sĩ trở về quê hương, lập phòng tuyến chống địch
đến cùng.
Giữa thế
kỷ VI, Lý Bí lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa chống giặc Lương thắng lợi, lập nhà
nước Vạn Xuân. Năm 545, Vua Lẩm Ấp đem quân cướp phá quận Nhật Nam (vùng Nghệ
Tĩnh). Lý Bí sai Phạm Tú và Đinh Lôi cầm quân vào đánh đuổi – Trên đường tiến
quân, Đinh Lôi đồn trú tại làng Kẻ Dầy, lấy thêm quân si. Trai tráng các làng
đến đầu quân rất đông. Thắng trận trở về, quân của tướng Đinh Lôi trở lại Kẻ
Dầy đêm mồng hai Tết nhân dân đốt đuốc đón nghĩa quân trở về, tổ chức khao quân
suốt đêm trên đỉnh núi Tiên Hương.
Thời loạn
Thập Nhị sứ quân, mảnh đất này cũng là nơi tranh chấp của các sứ quân. Nhân dân
oán ghét chiến tranh chia cắt đất nước, nên ủng hộ Đinh Bộ Lĩnh đánh bại các sứ
quân, thống nhất đất nước - Làng Đắc Lực có bà Phạm Thị Đậu đã nuôi dấu Đinh Bộ
Lĩnh khi ông thất trận bị các sử quân truy lùng, Nhiều thanh niên các làng Liên
Xương, Vinh Lại tham gia quận đội của Đinh Bộ Lĩnh, tiểu biểu là mẹ con bà Ất
Biện ở Liên Xương theo Vua Đinh đánh giặc. Bà giúp các tướng sĩ trong việc cơm
nước, vá may. Bốn con đều lập chiến công. Tạ Sùng Hy làng An Nhân (Thành Lợi)
tập hợp huấn luyện hàng ngàn nghĩa dũng giúp Đinh Bộ Lĩnh, có lần cứu vua thoát
khỏi vòng vây của địch trong một ngôi chùa. Tướng quân Lê Khai xây dựng lực
lượng ở làng Bịch, xây thành đắp lũy tích trữ lương thảo để cát cứ, sau theo
Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp các sứ quân. Phạm Cả làng Phong Cốc là một chàng trai
khỏe mạnh, nhưng sớm mồ côi cha mẹ, bị bọn cường hào ngược đãi đuổi khỏi làng.
Sau theo Đinh Bộ Lĩnh lập được chiến công. Hai vợ chồng Nguyễn Mẫn xây dựng lực
lượng ở Thái La, đem quân về với Đinh Bộ Lĩnh, được phong chức Đô Thái úy. Sau
khi Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích sát hại, Đinh Toàn mới sáu tuổi lên nối ngôi,
Thái Hậu Dương Vân Nga nhiếp chính. Giặc Tống đem quân xâm lược. Trước tình thế
nguy nan, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, Thái hậu Dương Vân Nga đã khoác áo
hoàng bào cho Lê Hoàn, tôn lên làm Hoàng đế, chỉ huy cả nước đánh giặc Tống.
Tướng quân Phạm Bạch Hổ đã gần 70 tuổi vẫn xung phong ra trận. Vua Lê giao cho
ông chăm lo việc binh lương. Phạm Bạch Hổ được phong là Đô Liệu lương thảo sứ,
lập đại bản doanh ở Đô Liệu (nay là Thi Liệu) xã Đại Thắng. Các làng Đô Liệu,
Bách Cốc, Quả Linh, Dương Lai, Đắc Lực, Đại Đê, Bất Di v.v... đều có kho lương
hoặc đội thuyền lương chuyên chở. Hoàng hậu Dương Vân Nga có lần đi thuyền rồng
ra Bến Ngự (Bách Cốc) xem xét việc chuẩn bị quân lương. Đại tướng Bùi Đại Liệu
làng Thông Khê (Cộng Hòa) là một tướng tài có nhiều chiến công phò Lễ chống
Tống. Đời Lý, tướng quân Cao Mang có thực ấp ở làng Hồ Sen, đã tập hợp nhiều
trai làng chỉ huy quân đội giúp vua Lý Thái Tông đẹp giặc gây rối ở Châu Hoan
(Nghệ Tĩnh).
Đầu
thế kỷ XIII, nhà Trần thay thế nhà Lý. Vua Chiêm Thành cho quân gây rối ở vùng
biên giới phía Nam - Lê Tông người Châu Ái (Thanh Hóa), làm quan triểu Trần có
thái ấp và dinh cơ ở làng Phú Thứ (Tam Thanh). Đương lúc quân Mông Cổ
uy hiếp phía Bắc, nội tình đất nước chưa
yên, vua Trần Thái Tông sai Lê Tông cầm quân chống giữ biên giới phía Nam - Lê Tông
tâu xin dùng chính sách hòa hiếu tránh binh đao cho hai dân tộc láng giềng. Ông
đi sứ thuyết phục được Vua Chiêm giữ yên hòa bình ở biên cương lại được Vua
Chiêm gả em gái là nàng Lư Đê, cho theo về nước, Ông đưa nàng Lư Đê về ở thái
ấp Phú Thứ, Quảng Cư, ông đã có công lớn góp phần đoàn kết Việt - Chiêm đánh
quân Toa Đô sau này.
Trong
cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên xâm lược nước ta, Vụ Bản cũng là địa bàn
giam chân địch để đại quân Trần rút lui về Trường Yên, chờ thời cơ phản công -
nhân dân làm vườn không nhà trống, quấy rối tiêu hao địch khi đại quân Trần
Hưng Đạo phản công. Tướng quân Cầm Địch
làng An Lễ (Liên Minh) chỉ huy dân binh tham gia chiến đấu bảo vệ quê hương. Làng
Quả Linh có đội thuyền chở lương cho quân Trần đánh giặc, thắng trận trở về mở
hội thái bình xướng ca, lập đình Đụn kỷ niệm ngày chiến thắng - Quân của tướng
Phạm Ngũ Lão đồn trú ở làng Hữu Dụng và làng Bàn Kết trấn giữ dọc sông Ba Sát
và đường quan lộ ngăn chặn giặc Nguyên - An Sinh Vương Trần Liễu lấy một người
thiếp là nàng Hồng Nương họ Nguyễn ở làng Hoàng Lão (Tân Khánh), sinh ra Quốc
Trấn năm 1232. Quốc Trấn theo anh là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn học lập binh
thư võ nghệ trở thành một trưởng giỏi - Trần Quốc Trấn về quê mẹ làng Hoàng Lão
tuyển nhiều trai tráng làm gia binh, rổi cùng theo Trần Quốc Tuấn ba lần khắng
chiến chống giặc Mông - Nguyên - ông lập được nhiều công trạng, được phong làm
Đô Thống trấn Quốc Đại vương". Cũng thời gian này, ở làng Hạ Xá (Tân
Khánh) có hai ông Cao Quý và Ký Công cũng đầu quân, giúp vua Trần đánh giặc Mông
- Nguyên, trở thành tướng giỏi.
Đầu
thế kỷ XV, giặc Minh chiếm đóng nước ta, lập ra hàng trăm phố trạm đóng quân
đàn áp nhân dân. Chúng dồn trú một lực lượng lớn ở phố Sở, ngày ngày sục sạo
quấy nhiễu các làng xung quanh. Bùi Bị người làng Hào Kiệt đã huy động trai
tráng trong làng đêm tối bất ngờ đánh úp phố Sở, giết hết bọn quan quân nhà
Minh, phóng hỏa đốt cháy trạm, rồi kéo nhau vào hội nhập với nghĩa quân Lam Sơn
- Năm 1426, tướng quân Bùi Bị chỉ huy một trong ba cánh quân từ Thanh Hóa ra
giải phóng quê hương và tiến về bao vây giặc Minh ở Đông Đô. Năm 1427, Bùi Bị
cùng Trần Nguyên Hãn chỉ huy hơn trăm chiến thuyền từ sông Đáy, qua sông Hồng,
tiến đánh Đông Bộ Đầu, đánh tan ba trăm chiến thuyền của tướng giặc Phương Chính
vừa từ Nghệ An tiếp cứu Đông Đô - sau đó Bùi Bị chỉ huy quân thiết đột vây hãm
phía Tây thành Đông Đô, buộc Vương Thông phải đầu hàng, rút quân về nước - Bùi
Bị là một trong những khai quốc công thần triều Lê Sơ, tước huyện Thượng Hầu, chức
Bảo chính công thần nhập nội thiếu úy, được phong quốc tính, đổi là họ Lê -
Cùng thời kỳ này Bùi Ư Đài người làng Bách Cốc đã cùng với con là Bùi Doãn Thái
lăn lộn núi rừng vào tụ Nghĩa ở Lam Sơn. Năm 1427, Lê Lợi ra Đông bộ đầu (sông Hồng)
chỉ huy bao vây thành Đông Đô, đã cử Nguyễn Trãi làm Thượng thư bộ lại và Bùi Ư
Đài làm thượng thư bộ Lễ cùng lo Xây dựng bộ máy nhà nước độc lập - Lê Lợi chia
nước làm bốn đạo, cử Bùi Ư Đài kiêm tri Tây đạo quân dân bạ tịch, củng cố miền
Tây Bắc, Sau đó lại cử kiêm tri Đông dạo quân dân bạ tịch rồi bắc đạo quân dân
bạ tịch để lo củng cố những miền đọc biên giới và ven biển nước ta - Bùi Ư Đài
cũng là một khai quốc công thần triều Lê, khi mất được phong Bình quốc công. Cuối
thế kỷ XVII, chế độ phong kiến Lê - Trịnh suy yếu cực độ, nông dân nổi dậy khắp
nơi. Nguyễn Huệ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đánh bại tập đoàn phong kiến
Nguyễn ở đàng trong, tiến quân ra đàng ngoài chống tập đoàn phong kiến Lê -
Trịnh. Năm 1786, Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất. Thành Vị Hoàng (Nam Định) thất
thủ, 10 vạn hộc lúa rồi vào tay nghĩa quân. Nhân dân các huyện Thiên Bản, Nam
Chân, Thượng Nguyên tập trung xay giã, tìm thuyền chở lương cho nghĩa quân tiến
về Đông Đô - Làng Trang Nghiêm (xã Minh Tân) có Nguyễn Nghiêm tham gia nghĩa
quân, giúp Vua Quang Trung chiêu tập được nhiều hiền tài, đưa cuộc kháng chiến
chống quân Thanh thắng lợi. Năm 1789, nghĩa quân Tây Sơn ra Bắc chống quân
Thanh. Nghĩa quân không ăn tết, mà hành quân thần tốc, hẹn đến ngày chiến thắng
sẽ trở về ăn tết với dân. Ngày 30 tháng giêng, nghĩa quân thắng trận trở về, ăn
tết với dân, gọi là tết mùng cùng, cùng gọi là tết Trung hòa, Ở Vụ Bản, các
làng Lương Kiệt, Côi và làng Báng đều có tết Mùng cùng vui cùng nghĩa quân.
Giữa
thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Ngày 01 tháng 9 năm 1858, chúng tấn
công Đà Nẵng rồi mở rộng đánh chiếm Nam Kỳ. Đồng thời cấu kết với bọn Hải phỉ
Tạ Văn Phụng gây rối dọc bờ biển Bắc Kỳ tạo đường cho chúng đánh ra - Vua Tự
Đức phái cử nhân tuần phủ Bùi Huy Phan (người làng Bách Cốc) chỉ huy quân tiêu
phí, đánh chiếm lại thành Cam Giang và Ninh Giang (Hải Dương), đuổi bọn phí ra
đảo Cát Bà, Ngày mồng ba tháng 9 năm Quỷ Hợi (1865), trong trận thủy chiến ở
đảo Cát Bà, Bùi Huy Phan cùng con rể là Nguyễn Qúy Doãn, cháu là suất đội Bùi
Huy Tiến chiến đấu đến cùng và anh dũng hy sinh.
Năm 1873, Pháp đem quân đánh Bắc Kỳ lần
thứ nhất. Sau khi chiếm Phủ Lý, Ninh Bình và Hưng Yên, ngày 10-12-1873, Pháp
tập trung quân đánh Nam Định. Tàu chiến Xcooc-pi-ông từ Ninh Bình theo sông Đáy
vào sông Đào tiến về Nam Định. Nghĩa quân do đốc học Phạm Văn Nghị chỉ huy chặn
đánh địch tại đồn Độc Bộ phối hợp với dân binh do Ngô Lý Diên chỉ huy, nã súng
vào tàu giặc, bắn gãy cột buồm, mất cột thu lôi - Dân binh các làng ven sông
bơi thuyền len lỏi trong lau sậy đánh trả địch ác liệt lao những chướng ngại
vật ra dòng nước cản giặc. Mãi gần trưa hôm sau, tàu địch mới vượt qua đồn tiền
tiêu này đổ bộ vào thành Nam Định. Bọn quan lại đầu tỉnh bỏ chạy hết, nhưng
phần đông binh lính vẫn ở lại chiến đấu giữ thành - Trong số này có nhiều võ
sinh quê Vụ Bản như Suất đội Nguyễn Văn Nhự ở làng Hổ Sơn, Quản Mười, đội Chín,
Thơ Ngữ, Binh Nhĩ, binh Nhã người làng Cao Phương. Đội Nhự hy sinh, số khác bị
thương, nhưng anh em quyết không chịu hàng, cố mở cửa thành chạy về Vụ Bản.
Thành Nam Định thất thủ, các văn thân yêu nước tiếp tục cuộc vận động chống
Pháp - Các làng xung quanh Thành Nam, trong đó có Tiểu Cốc (Tân Thành) đào hào
đắp lũy rào làng, vũ trang cho dân binh bao vây uy hiếp Thành Nam. Nhiều nghĩa
sĩ Vụ Bản tham gia nghĩa quân núi Rà (Ý Yên) do đốc học Phạm Văn Nghị và tú tài
Phạm Lý chỉ huy. Đội trưởng cử nhân Võ Lê Xuân Sơn (người làng Duyên Trường,
Minh Thuận) chỉ huy hương binh Vụ Bản, tham gia nghĩa quân núi Rà, vận động dân
binh các làng Duyên Trường, Hạ Xá, Việt An, bàn kết phối hợp bảo vệ huyện thành
Vụ Bản. Đầu năm 1874, Đội Sơn đã cùng dân bỉnh chặn giặc ở Cầu Ngăm, đánh đuổi
quân Pháp đến tận Đồng Mông - Quang Trung qua sông chạy về Thành Nam.
Năm
1883, Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ hai, Ngày 27-3-1883, chúng tấn công thành Nam
Định, Quan binh trong thành do Ấn Sát Hồ Bá Ôn và đề đốc Lê Văn Điểm chỉ huy
quyết giữ thành. Án sát Hồ Bá Ôn bị thương nặng, đề đốc Lê Văn Điếm, hy sinh,
quan binh phải rút về cố thủ ở Mỹ Trọng, Cầu Gia, Tiểu Cốc, lập phòng tuyến bao
vây lại quân Pháp. Đêm các làng Vụ Bản cung cấp quân lương, canh gác thôn xóm,
hỗ trợ cho quan quân đánh giặc, kéo dài đến tháng 7-1883. Triều đình Huế nhu
nhược đầu hàng, ký hiệp ước 1883 bán nước ta cho Pháp, quan binh buộc phải giải
tán. Bắc kỳ biến thành xứ bảo hộ của Pháp. Thực dân Pháp thực hiện chính sách
vừa mua chuộc dụ dỗ vừa bức bách sĩ phu văn thân ra làm quan, thực chất là làm
tay sai cho chúng để chúng dễ bề trị dân. Phần đông các sĩ phu Vụ Bản có lòng yêu
nước, sống ẩn dật, mở trường dạy học,làm thơ cảm khái, quyết không hợp tác với
địch. Một số bất đắc dĩ phải nhận quan chức cũng chỉ nhận các chức học quan như
Đốc học, huấn đạo... Một số không nhỏ biểu hiện tinh thần bất khuất ngấm ngầm
hoặc công khai tham gia các phong trào Cần Vương yêu nước vũ trang chống Pháp.
Năm 1884, đề đốc Tạ Hiện người Thái Bình, tập trung hàng ngàn nghĩa quân ở đền
Bảo Lộc (Mỹ Lộc) chuẩn bị đánh úp lấy lại Thành Nam. Nhiều thanh niên, sĩ phu
yêu nước ở Vụ Bản tham gia nghĩa quân, tiêu biểu như đội trưởng Nguyễn Đình
Cuông người làng Hồ Sen. Kế hoạch bị bại lộ, giặc Pháp bao vây lại nghĩa quân -
nghĩa quân Tạ Hiện vừa đánh vừa rút qua đường Vụ Bản, vượt sông Đào sang Nam
Trực, di chuyển về Thái Bình. Đội Cuông và một số nghĩa sĩ chiến đấu hy sinh
chặn địch cho đại quân rút lui, Hưởng ứng phong trào Cần vương chống Pháp đỏ
vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, nhiều vẫn thân sĩ phu yêu nước Vụ
Bản đã tổ chức dân bình, chuẩn bị vớ khí, lượng thực, xây dựng cơ sở, chờ thời
cơ khởi sự, tiêu biểu như các làng Vân Cát, Duyên Trường, Hào Kiệt, Định Trạch,
Thái La, Hạnh Lâm v.v. . Phong trào
lan rộng, thực dân Pháp phải cho quân đồn trú nhiều nơi để đàn áp. Tháng
12-1888, một lực lượng quân Pháp vào đóng ở Tiên Hương, kiếm soát gắt gao
các làng xung quanh. NGày 23-12-1888,
dân binh làng Vân Cát do Trần Văn Đặng chỉ huy phối hợp với nghĩa quân Tạ Hiện
do đội Võ chỉ huy tập kích đồn binh Tiên Hương của Pháp, cuộc chúng phải rút
chạy. Hôm sau, giặc Pháp kéo quân từ Nam Định về tấn công làng Vân Cát. Dựa vào
địa thế làng đã được rào kín, ngõ ngách nhiều, lại đào hào sâu phía trong,
nghĩa quân Vân Cát đã đánh lui nhiều đợt tấn công của địch, diệt một lính Pháp
làm bị thương nhiều tên khác, không cho chúng vào làng. Ở Duyên Trường, đội
trưởng Lê Xuân Sơn tập hợp dân binh trong vùng tiếp tục luyện tập cả thủy lẫn
bộ, rồi đem quân vào Ninh Bình, phối hợp với nghĩa quân của Thiên hộ Nguyễn
Giản chiếm lại thành Ninh Bình. Nhưng việc không thành. Ở Hào
Kiệt, Đốc vận quân lương Phạm Văn Nhiễu
tổ chức vận động nhân dân ủng hộ nghĩa quân Tạ Hiện vũ khí và lương thực, đã nhiều
lần chuyển được sang Thái Bình. Phong trào Tạ Hiện thất bại, ông vào Thanh Hóa
tiếp tục tham gia nghĩa quân Tống Duy Tân chống Pháp - Ở Định Trạch, Đốc biện
quân lương Đàm Trí Trạch có liên hệ với Nguyễn Quang Bích để mưu đồ khởi nghĩa,
lo sắm nhiều vũ khí, tập hợp thợ rèn Bảo Ngũ rèn dáo mác. Do không bảo vệ được
bí mật, thực dân Pháp đem quân đàn áp, đốt cháy làng Bảo Ngũ, Cao Phương, Định
Trạch, nhưng nghĩa quân và thợ rèn rút lui an toàn về Hào Kiệt - Đàm Trí Trạch
lên Hòa Bình tiếp tục hoạt động. Ở làng Thái La, ông đồ Nguyễn Đức Huy phối hợp
với ông cử Hạnh Lâm chuẩn bị võ trang khởi nghĩa, nhưng chưa khởi sự dịch đã
khủng bố - ông đồ Huy đã hy sinh bất khuất.
Phong
trào Cần Vương và những cuộc khởi nghĩa chống Pháp trong cả nước và ở Vụ Bản
cuối cùng đều thất bại, do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu một tổ chức cách
mạng có khả năng dần đất dân tộc ta đến thắng lợi - Thất bại của phong trào này
đánh dấu sự chấm đứt thời kỳ đấu tranh chống ngoại xâm trong khuôn khổ hệ tư
tưởng phong kiến. t Vào đầu thế kỷ XX, nước Nhật từ sau cuộc vận động Minh Trị
Duy Tân, đã trở thành một cường quốc đế quốc chủ nghĩa ở Châu Á, đánh bại Nga
Hoàng trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật (1905) và đánh bại nhà Thanh trong cuộc
chiến tranh Trung - Nhật (1904 - 1905) - Ở Trung Quốc, cách mạng Tân Hợi (1911)
đã đánh đổ triều đình Mãn Thanh, lập ra nước Trung Hoa dân quốc - Những sự kiện
trên đây đã ảnh hưởng đến phong trào yêu nước Việt Nam - Ý thức hệ tư sản
phương Tây đã thâm nhập vào Việt Nam. Một số sĩ phu yêu nước tiến bộ đã tiếp
thu trào lưu tư tưởng này. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công (1917), đánh dấu
bước phát triển mới trong lịch sử nhân loại. Từ đây, cách mạng Việt Nam cũng
bắt đầu có những chuyển biến mới, có tác động sâu sắc vào phong trào yêu nước
dân chủ và sự thành lập Đảng ở nước ta, ở Nam Định và của Vụ Bản. Nhìn chung,
Vụ Bản là một huyện hình thành sớm trong tỉnh Nam Định, có lịch sử lâu đời và
truyền thống vẻ vang - Tuy là vùng chiêm trũng của châu thổ Sông Hồng, nhưng Vụ
Bản có cảnh quan sơn thủy hữu tình, có những dải đất cao tạo nên những cánh
đồng mầu màu mỡ, làm cho nông nghiệp phát triển phong phú, đa dạng, thậm chí
còn được đặt tên là Thiên Bản với ý nghĩa là trung tâm nông nghiệp lâu dời. Vụ
Bản lại nằm trên nhiều đường giao thông quan trọng, từ đường Thiên lý dịch mãi
xưa, đến đường quốc lộ 10, quốc lộ 12, đường xe lửa xuyên Việt đi qua, lại kể
cận thành phố Nam Định, nển có điều kiện giao lại phát triển kinh tế nông công
thương nghiệp, Mặt khác, Vụ Bản cũng chịu nhiều tác động của biến thiên lịch sử
dân lộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước từ thuở các vụa Hùng lập nghiệp,
góp phần vào sự phát triển mạnh mẽ của nền văn hiến dân tộc lâu đời mà ít miền
có được./.
Phòng VHTT sưu tầm, biên soạn và giới thiệu
Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Vụ Bản