Huyện Vụ Bản, tỉnh Nam
Định là huyện nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh, với diện tích 128 km2,
dân số gần 14 vạn, có 04 Quốc lộ và 01 đường sắt Bắc Nam chạy qua, về địa giới
hành chính được chia thành 18 xã, thị trấn; người dân cơ bản là làm nông
nghiệp.
- Về
giao thương: Huyện Vụ Bản nằm ở phía Tây và giáp với thành phố Nam Định, có mạng lưới giao thông vận tải thuận tiện với tuyến
đường sắt Bắc Nam và
các tuyến Quốc lộ 10, Quốc lộ 21, Quốc lộ 37B, Quốc lộ
38B chạy qua.
- Về tài nguyên đất: Huyện
có 14.834 ha đất tự nhiên trong đó 10.729 ha đất trồng trọt. Đất đai tuy trũng
nhưng bằng phẳng.
- Về nguồn nhân lực: Dân số gần 14 vạn người, do đó, nguồn lực lao động
dồi dào. Đến cuối năm 2021, có gần 7 vạn người trong độ tuổi lao động chiếm
khoảng gần 50% dân số, đây là tiềm năng to lớn, đáp ứng sức lao động cho nhu
cầu phát triển kinh tế, xã hội của huyện; thế mạnh chủ yếu của nguồn lao động
là cần cù, ham học và có tay nghề truyền thống khéo léo.
Trong những năm vừa qua,
UBND huyện Vụ Bản đã tập trung triển khai, chỉ đạo quyết liệt, có hiệu quả các
Nghị quyết, Chỉ thị về phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, của huyện. Trong
điều kiện khó khăn chung của nền kinh tế, đã cố gắng huy động được nhiều nguồn
vốn cho đầu tư phát triển, tập trung cho các công trình trọng điểm, kết cấu hạ
tầng thiết yếu phục vụ phát triển kinh tế-xã hội. Do đó, kinh tế - xã hội của
huyện Vụ Bản cơ bản ổn định, một số ngành, lĩnh vực tiếp tục duy trì tốc độ
tăng trưởng theo kế hoạch.
1-Về sản xuất nông nghiệp: Sau 5 năm thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, đã quy hoạch 1.253 vùng sản xuất. Chuyển
đổi 264 ha đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng lúa kết hợp nuôi trồng thủy
sản, trồng cây rau màu ... Đề án khuyến khích tích tụ, tập trung ruộng
đất, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp bước đầu mang lại hiệu
quả; hình thành 46 mô hình có
diện tích 02 ha trở lên, 07 mô hình ứng dụng công nghệ cao. Xây dựng “cánh đồng lớn”, “cánh đồng liên kết”,
gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị. Tỷ lệ lúa chất lượng cao chiếm 75% diện tích; hiệu quả
sản xuất lúa tăng 7-10% so với năm 2015. Làm tốt công tác khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ thực vật, thú y và chuyển
giao ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ. Đầu tư, kiên cố hoá các công
trình thuỷ lợi; đào đắp, nạo vét kênh mương; cơ giới hóa 95% các khâu
trong sản xuất lúa. Tăng cường công
tác quản lý đê điều, phòng chống lụt, bão. Các hoạt động dịch vụ nông
nghiệp phát triển đa dạng, cơ bản đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất. Nâng cao
năng lực chỉ đạo sản xuất của Ban Nông nghiệp các xã, thị trấn; đổi mới tổ chức,
quản lý 35 HTX dịch vụ nông nghiệp theo luật định.
Tỷ trọng ngành nông nghiệp
trong cơ cấu kinh tế giảm từ 26,12% năm 2015 xuống còn 16,9% năm 2020. Sản xuất
nông nghiệp từng bước chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, tỷ trọng ngành
chăn nuôi tăng từ 34% lên 40%, tỷ trọng ngành trồng trọt giảm từ 61% xuống 55%.
Sản lượng lương thực giữ mức ổn định, bình quân đạt 96.480 tấn/năm; giá trị 1
ha canh tác đạt 102 triệu đồng/năm. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt trên
13.600 tấn (chỉ tiêu trên 13.000 tấn).
Xuất hiện một số mô hình nuôi trồng thủy sản tập trung, hiệu quả kinh tế cao
như: Cá Trắm đen, cá Koi, Ba Ba…
Lĩnh vực xây dựng nông thôn mới: Với sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của cả hệ thống
chính trị và sự đồng thuận của nhân dân. Huyện đạt chuẩn NTM vào năm 2018 về
trước 02 năm so với mục tiêu Nghị quyết
Đại hội Đảng huyện lần thứ XXI (nhiệm kỳ 2015-2020). Đến nay có 10/18 xã, thị
trấn được Tỉnh thẩm tra, công nhận đạt chuẩn NTM nâng cao; 14 thôn, xóm, tổ dân
phố đạt NTM kiểu mẫu. Tổng vốn đầu tư xây dựng nông thôn mới đạt trên 2.400 tỷ
đồng, trong đó nguồn vốn do nhân dân tự nguyện đóng góp là gần 500 tỷ đồng;
Nhân dân góp và hiến 298 ha đất và 148.000 ngày công lao động. Chương trình xây dựng nông thôn mới đã tạo được
nhiều nguồn lực, từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng nông thôn, thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội.
2. Lĩnh
vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng
Thực hiện có hiệu quả xây dựng quy hoạch phát triển sản xuất công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
xã hội và quy hoạch sử dụng đất. Triển khai xây dựng Cụm công nghiệp Thanh Côi,
diện tích 50 ha. Khu công nghiệp Bảo Minh với quy mô 165 ha, tạo việc làm cho
trên 14.000 lao động. Từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động các Cụm công nghiệp
và các điểm sản xuất, kinh doanh dịch vụ hiện có trên địa bàn. Các khu, cụm
công nghiệp, TTCN đã giải quyết việc làm cho hơn 25.000 lao động, thu nhập bình quân từ 5-7
triệu đồng/người/tháng.
Tập trung đầu tư nâng cấp, hoàn thiện cơ bản hệ
thống giao thông, hạ tầng đô thị, nông thôn góp phần làm thay đổi mạnh mẽ cơ
cấu kinh tế, tăng thu ngân sách, tạo đà phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Triển khai xây dựng các khu, điểm dân cư tập trung gắn với xây dựng NTM
nâng cao, NTM kiểu mẫu, đô thị thông minh. Hạ tầng kỹ thuật ở nhiều khu vực
nông thôn được đầu tư xây dựng theo hướng hiện đại, nhất là hệ thống đường giao
thông, điện chiếu sáng, trường học, trạm y tế, trụ sở làm việc; các thiết chế
văn hóa, thể thao …. Từng bước được nâng cao và thực hiện có hiệu quả. Tổng vốn
đầu tư xây dựng từ 2016 - 2020 đạt 2.471,2 tỷ đồng. Giá trị sản xuất công
nghiệp - xây dựng đến năm 2020 đạt 5.886 tỷ đồng, tăng trung bình cả nhiệm kỳ
26,3%.
3. Hoạt động thương mại - dịch vụ
Dịch vụ, thương mại có những bước phát triển mới cả về quy mô, tốc độ và
các loại hình, đã thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia. Số lượng khách du
lịch tham gia các lễ hội truyền thống như lễ hội Phủ Dầy, chợ Viềng xuân
và Khu du lịch sinh thái Núi Ngăm tăng cả về số lượng du khách, chất lượng phục
vụ. Các ngành thông tin, bưu chính, bảo hiểm, y tế… được quan tâm đầu tư hiện
đại với nhiều loại hình dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu phục vụ người dân tốt hơn. Hệ
thống cấp nước sạch, lưới điện được cải tạo, xây mới; mạng lưới viễn thông phủ
sóng rộng, cơ bản đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất. Hoạt động thương mại
từng bước phát triển đáp ứng nhu cầu giao thương hàng hóa phục vụ nhân dân. Giá
trị sản xuất các ngành dịch vụ đến năm 2020 đạt 1.988 tỷ đồng, tăng trung bình cả nhiệm kỳ 16,2%.
4. Công tác tài nguyên và bảo vệ môi trường
Thực hiện tốt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2020.
Cơ bản hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho nhân
dân; cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, đạt gần 60%. Thực
hiện tốt công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án trọng
điểm; vận động nhân dân tự nguyện hiến đất, góp đất làm các công trình hạ tầng
giao thông, thủy lợi và xây dựng nông thôn mới. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết đơn thư, khiếu
nại tố cáo; kiên quyết xử lý các vụ vi phạm.
Công tác vệ sinh môi trường được quan
tâm chỉ đạo. Hoàn thành việc chuyển nguồn nước thô từ
sông Đào cấp cho các nhà máy nước sạch, đáp ứng yêu cầu sản xuất và phục vụ
sinh hoạt của nhân dân. Đẩy mạnh việc thu gom, xử lý
rác thải; xây dựng mô hình phân loại, xử lý rác hữu cơ tại nguồn 18/18 xã, thị
trấn. Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện các quy định về bảo
vệ môi trường khu vực dân cư, các khu, cụm công nghiệp, làng nghề được tăng
cường. 100% dân số dùng nước sạch; tỷ lệ rác thải được thu gom xử lý đến năm
2020 đạt 94,4%.
5. Hoạt động kế hoạch, tài chính, tín dụng
Tổng thu ngân sách nhà nước
trên địa bàn huyện từ năm 2015-2020 đạt 3.820 tỷ đồng, đạt 150% dự toán (trừ tiền cấp quyền sử dụng đất), tăng bình
quân hàng năm 11% (trong đó thu nội địa
1.467 tỷ đồng, đạt 155% dự toán). Tổng chi ngân sách nhà nước 3.528 tỷ
đồng, đạt 171% dự toán, tăng 10%/năm. Công tác điều hành tài chính - ngân sách
đảm bảo kịp thời, đúng quy định của Luật Ngân sách Nhà nước. Kho bạc nhà nước
huyện thực hiện tốt kiểm soát chi ngân sách nhà nước trên địa bàn. Dư nợ Ngân
hàng Nông nghiệp và PTNT tăng 18%/năm, đến năm 2020 đạt 1.257 tỷ đồng, đạt 228%
so với năm 2015. Dư nợ Ngân hàng chính sách xã hội tăng 1,69%/năm, đến năm 2020
đạt 184,771 tỷ đồng, tăng 7% so với năm 2015.
6. Sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo
Tập trung đổi mới phương pháp
dạy và học, hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục
đào tạo. Hoàn thành việc sáp nhập các trường Tiểu học trên cùng địa bàn một xã,
thị trấn. Công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục
tiểu học, THCS đạt chất lượng cao và vững chắc. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung
học cơ sở và trung học phổ thông đạt 99-100%. Số học sinh thi đỗ vào lớp 10
THPT, thi đỗ vào Trường THPT Lê Hồng Phong trong tốp đầu của tỉnh. Chất lượng
học sinh giỏi, tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng hàng năm
đều tăng. 59/63 trường đạt chuẩn quốc gia, đạt 93,7%; (đến năm 2020 còn 04 trường mầm non chưa đạt chuẩn). Thực hiện tốt
chương trình giáo dục phổ thông 2018 theo chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo.
7. Phát triển khoa học công nghệ
Đẩy
mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông
tin trong các cơ quan, đơn vị, góp phần phục vụ tốt yêu cầu xây dựng Chính
quyền điện tử, làm chuyển biến mạnh mẽ lề lối và phương thức làm việc của cán
bộ, công chức. Công tác quản lý nhà nước về khoa học công nghệ được tăng
cường, tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân và doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ công.
8. Hoạt động văn hóa, thông tin và thể thao
Công tác thông tin, tuyên
truyền ngày càng đa dạng, nhiều chiều, kịp thời phục vụ nhiệm vụ chính trị, phổ
biến các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trang Thông
tin điện tử của huyện và các xã, thị trấn hoạt động có hiệu quả. Triển khai sâu
rộng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” gắn với Cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị
văn minh”. Đến
năm 2020 đã có: 100% số cơ quan đạt chuẩn nếp sống văn hóa; 98% số thôn, xóm
đạt làng văn hóa; 98% hộ gia đình đạt danh hiệu Gia đình văn hóa. 100% thôn xóm
có Nhà văn hóa và bổ sung sửa đổi Hương ước thôn xóm theo chuẩn NTM; 02 xã được
công nhận đạt chuẩn xã văn hóa nông thôn mới.
Quan
tâm tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể thao quần chúng và thể thao
thành tích cao; tổ chức tốt Đại hội TDTT lần thứ VIII. Công tác quản lý và tổ chức các lễ hội có nhiều chuyển biến tích cực,
nhất là Lễ hội Phủ Dầy, Chợ Viềng Xuân. Nhiều lễ hội làng được phục
dựng, phát triển theo hướng kết hợp truyền thống với hiện đại. “Thực hành tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ của người
Việt” được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại, khẳng định sự nỗ lực của các cấp, các ngành và cộng đồng trong việc bảo
tồn kho tàng di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc; từ đó tiếp tục quảng bá,
tôn vinh các giá trị đặc sắc của di sản văn hóa, hình ảnh vùng đất Thiên Bản
giàu truyền thống văn hóa, cách mạng đến với Nhân dân cả nước và bạn bè quốc
tế.
9. Y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân
- Ngay từ khi dịch Covid-19 mới xuất
hiện, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương đã nhận định,
đánh giá đây là dịch bệnh nguy hiểm, có khả năng lây lan nhanh ra cộng đồng và
chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Thực hiện nghiêm chỉ đạo của Trung ương, của
Tỉnh và Huyện ủy; UBND huyện đã tập
trung chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ các biện pháp phòng, chống dịch, quán triệt
sâu sắc quan điểm "chống dịch như chống giặc". Ngành Y tế, Công an,
Quân đội là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ; đảm bảo chuẩn
bị chu đáo các điều kiện sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống dịch bệnh phát
sinh. Cùng với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận, tin tưởng
và thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống dịch của Nhân dân. Đến hết năm
2020, trên địa bàn huyện chưa ghi nhận trường hợp nào dương tính với Covid-19
trong cộng đồng.
Bên
cạnh thực hiện nhiệm vụ phòng, chống dịch; UBND huyện đã tập trung chỉ đạo triển
khai thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch
Covid-19, giúp người dân bớt đi khó khăn, ổn định cuộc sống.
- Công tác bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe nhân dân tiếp tục có bước
chuyển biến tích cực. Các chương trình mục tiêu y tế quốc gia triển khai
thực hiện có hiệu quả. Công tác phòng, chống dịch bệnh đạt kết quả tốt, mạng
lưới y tế cơ sở từng bước nâng cấp và hoàn thiện. Cơ sở vật chất của Trung tâm
y tế huyện được tăng cường, quy mô 180 giường bệnh; đội ngũ cán bộ, nhân viên y
tế không ngừng được bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ và y đức. Thực hiện kỹ
thuật “chạy thận nhân tạo”. Bảo hiểm y tế toàn dân đến 2020 đạt 92%. Giảm tỷ
suất sinh bình quân hàng năm 0,1‰; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 0,75%/năm. Tỷ lệ
trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng 11,38%. Trẻ em dưới 1 tuổi tiêm vắcxin
đủ liều đạt 97,3%; 18/18 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế.
10. Công tác thực hiện chính sách xã hội,
giảm nghèo, đào tạo nghề, giải quyết việc làm
Đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động được quan tâm. Tạo
việc làm mới cho 14.000 lao động, đạt 115%; tỷ lệ lao động có việc làm đạt
95,8%; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 65%. Chương trình mục tiêu giảm
nghèo bền vững được quan tâm thực hiện hiệu quả; đã chi gần 150 tỷ đồng cho công tác đảm bảo an sinh
xã hội. Hỗ trợ làm 878 nhà ở, trị giá trên 25 tỷ; giải quyết 88.368 lượt người
có công và thân nhân được hưởng các chính sách ưu đãi; điều dưỡng 8.000 lượt
người có công; chi trả trợ cấp thường xuyên cho 4.200 đối tượng; hỗ trợ bảo
hiểm y tế cho 22.100 người.100% hộ gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao
hơn mức sống trung bình ở địa phương.
Tỷ lệ hộ nghèo đến hết năm 2020 còn 0,97% (trong
đó diện bảo trợ xã hội là 0,91%).
11-
ANCT&Trật tự ATXH, Quân sự-Quốc phòng: Được đảm bảo, đặc biệt, giữ vững ổn
định tình hình chính trị phục vụ Đại hội Đảng các cấp. Thực hiện tốt công tác
Quân sự quốc phòng địa phương, hoàn thành chỉ tiêu giao quân hàng năm tỷ lệ
100%.