Trần Thị Ngọc
Đài sinh vào mùa thu năm Đinh Sửu (1577) trong một gia đình ở làng Thung Khê
(xã Cộng Hòa). Cha là Trần Khải Tường là người Giáp Tư, Bảo Ngũ (xã Trung
Thành), thích dân ca hát chèo, yêu một cô gái họ Phùng giỏi ca hát trong một
phường hát ở làng Thung Khê, sau khi lấy nhau, ở rể làng Thung Khê. Sống trong
một gia đình ca hát giỏi ở một phường hát nổi tiếng đất Thiên Bản lúc đó, nên
Ngọc Đài sớm trở thành một kỹ nữ, hát hay, múa đẹp, thường theo phường hát
Thung Khê đi hát nhiều nơi. Nàng yêu kép hát Lê Văn Hiển ở phường hát Bảo Ngũ,
rồi lấy nhau, hai người thường đóng đào kép trong nhiều vở chèo và cùng nổi
tiếng. Không may kép Hiền bị bạo bệnh mà mất ngay trong một buổi diễn chèo, rồi
cha mẹ nàng cũng lần lượt qua đời, Nàng Ngọc Đài vẫn ở lại Bảo Ngũ, tham gia
phường hát làng đó, Một hôm Tráng quận công Ngô Đình Nga về thăm quê ở Giáp Nhì
Bảo Ngũ, Ông mời phường hát đến diễn trò mua vui cho quân sĩ và dân làng, Thấy
Ngọc Đài hát hay múa giỏi mà số phận hẩm hiu, Tráng quận công đưa nàng về dinh,
lấy làm thiếp, cho nàng dạy múa hát phục vụ trong quân doanh, Năm Canh Tý
(1600), Tráng quận công Ngô Đình Nga tử trận trên sông Thiên Đức. Nàng Ngọc Đài
lại trở về quê nhà, làm ruộng sinh con, đồng thời tiếp tục tham gia phường hát
Bảo Ngũ.
Ba năm trôi
qua, Ngọc Đài một mình cấy hái ở vậy nuôi con. Một hôm, Bình quận công Trịnh
Tráng đánh giặc ở Sơn Nam, thắng trận trở về, nghỉ ở làng Bảo Ngũ. Thấy nàng
Ngọc Đài xinh đẹp, lại vừa tài hoa, Trịnh Tráng muốn ngỏ ý đưa nàng về dinh.
Ngọc Đài đến Phủ Dầy làng An Thái khấn xin Thánh mẫu Liễu Hạnh cho nàng được
yên phận cùng Trịnh tướng quân và xin nguyện sẽ tôn vinh Mẫu Liễu, hứa sẽ mở
mang Phủ Dầy làm nhiều chùa phủ, cầu cống để tạ ơn Mẫu.
Ngọc Đài về
làm thiếp của Trịnh Tráng. Ba năm sau (1606) sinh con trai là Trịnh Tạc. Bình
quận công mặc dù có nhiều con nhưng Trịnh Tạc là người thông minh, nhanh nhẹn
nên được Quận công yêu quý hơn. Năm 1623, chúa Trịnh Tùng qua đời, Trịnh Tráng
được tấn phong làm Tiết chế Thái uý Thanh Quốc công thay cha cầm quân diệt thế
lực cuối cùng của nhà Mạc, ổn định đất nước. Vua Lê phong Trịnh Tráng là Nguyên
soái Thống quốc chính Thanh Đô vương, Trần Thị Ngọc Đài được phong làm Vương
phi. Năm 1617, Ngọc Đài về quê Bảo Ngũ, cho tôn tạo lại chùa Pháp Quang ở Giáp
Nhì đến năm 1629 thì Hoàn thành. Chùa lợp ngói, có tam quan đẹp, phật đường 5
gian ruộng, phật điện cũng 5 gian rộng. Hai bên lại có hai dãy nhà 10 gian để
đặt tượng Phật hình thành nên bình đồ kiến trúc nội công, ngoại quốc. Vương phi
Ngọc Đài còn đúc tượng phật Thích Ca bằng vàng thật và tô lại hơn hai mươi
tượng Phật bằng đồng và bằng gỗ. Khoảng năm Canh Ngọ đến năm Nhâm Dần (1630 -
1632) đê sông Hồng, sông Đáy bị vỡ. Kinh thành Thăng Long và vùng Sơn Nam Hạ
cùng bị lụt nhưng dân phu Vụ Bản không được ở nhà đắp đê mà phải lên đắp đê
sông Hồng ở Thăng Long. Được tin, Vương phi Ngọc Đài đã xin chúa Trịnh cho miễn
phu dịch ở Thăng Long, lại cấp tiền gạo cho về quê nhà. Qua Phủ Dầy An Thái,
dân phu mang thuổng cuốc vào lễ tạ Thánh Mẫu Liễu Hạnh theo lời dặn của Vương
phi Ngọc Đài. Năm Dương Hòa thứ 8 (1642), sau khi cho lợp ngói Phủ Dầy, cử 10
phu trông coi Phủ, đúng ngày giỗ Thánh Mẫu, Vương phi về làm lễ tạ, đã bố trí
dân phu thay thuổng cuốc bằng gậy hoa để xếp chữ, đó chính là khởi đầu cho lễ
hội xếp chữ bằng gậy (Hoa Trượng hội), một trong những nghi thức long trọng
nhất của lễ hội Phủ Dầy sau này.
Một năm, chúa
Trịnh Tráng cùng Vương phi về thăm quê ngoại Bảo Ngũ, Thung Khê. Chúa Trịnh
thấy hai làng có nhiều đô vật, đã lấy sung vào quân cấm vệ, sau này đều trở
thành tướng lĩnh có tài. Bà lại khuyến khích cho tiền giúp dân Thung Khê đào
mương dẫn nước thoát lũ, giúp dân Giáp Nhất Bảo Ngũ mở mang nghề rèn, dân Giáp
Ba mở mang nghề dệt, dân Giáp Tư mở mang nghề trang kim vàng mã hoặc làm thợ
kim Hoàn, Bà khuyến khích dân Giáp Nhì ven đường quan lộ mở cửa hàng buôn bán,
làm nghề thủ công, mở chợ để giao lưu hàng hoá, Dân quý trọng bà đặt tên là chợ
Trần" cũng chính là chợ Dần hiện nay. Năm 1657, chúa Trịnh Tráng qua đời,
Trịnh Tạc lên thay, Ngọc Đài trở thành Thái phi. Để tạ ơn Mẫu Liễu, Thái phi
xây dựng Phủ Thông nguy nga đồ sộ bên cạnh chùa Pháp Quang, đúc tượng thánh mẫu
Liễu Hạnh để thờ. Hàng năm, hội Hoa Trượng đều phải rước kiệu lên xin chữ ở Phủ
Thông. Năm 1669, Thái Phi Trần Thị Ngọc Đài qua đời. Chúa Trịnh Tạc cử Luân
quận công Vũ Công Chấn (người làng An Cự cùng huyện) chỉ huy đoàn thuyền chở
linh cữu của Thánh Mẫu về an táng tại đất quê chúa Trịnh ở Thanh Hoá. Bà được
chúa Trịnh Tạc đúc tượng đồng cùng thờ với Thánh Mẫu ở phủ Thông.
Hàng năm, nhân
dân Bảo Ngũ, Thung Khê đến ngày 14 tháng Giêng đều tề tựu đông đủ làm lễ tri ân
công đức của một Thái phi đã có công chăm lo đến đời sống dân quê Thiên Bản, để
lại cho quê hương nhiều thành tựu văn hoá, kinh tế to lớn và đẹp đẽ.
Phòng VHTT sưu tầm,soạn và giới thiệu
Theo Địa chí Văn hóa huyện Vụ Bản