Ở ẩn, chờ minh chủ
Bùi Ư Đài sinh năm Quý Hợi (1383), tự là Doãn Trung, thụy
Phúc Toàn, quê gốc ở huyện Thanh Oai, Hà Đông (nay là Hà Nội). Ông xuất
thân trong một gia đình nho học. Ông nội là Bùi Doãn Nguyên, đậu Hương
cống, sau đó ông dời cư về làng Bách Cốc (nay thuộc xã Thành Lợi, huyện
Vụ Bản, tỉnh Nam Định) mở trường dạy học.
Bùi Doãn Nguyên sinh được một người con trai là Bùi Quang
Gia, nối nghiệp cha, ông tiếp tục mở trường dạy học. Năm Giáp Dần
(1374) đời vua Trần Duệ Tông, Bùi Quang Gia thi đậu Hương cống, nhưng
ông cũng không ra làm quan, ở nhà dạy học.
Bùi Quang Gia sinh được hai người con trai là Bùi Doãn
Trung (tức Bùi Ư Đài) và Bùi Doãn Hậu. Bùi Quang Gia sinh con muộn nên
rất quý con và ra sức dạy dỗ các con nên người.
Lúc này Hồ Quý Ly đã lên ngôi thay triều Trần trị vì đất
nước. Bùi Ư Đài lớn lên trong thời buổi có nhiều biến đổi về chính trị.
Nội bộ triều đình đang tranh chấp lẫn nhau.
Lúc này Bùi Ư Đài là người có sức khỏe, có học lực, nhưng
chán cảnh quan trường nhiễu nhương, ông không đua tài khoa cử. Khi nhà
Minh đem quân vào xâm lược nước ta, cha con Hồ Quý Ly không đủ sức đánh
đuổi được giặc và rồi bị bại trận, hai cha con họ Hồ bị giặc bắt.
Bùi Ư Đài vẫn ở ẩn chờ thời cơ, chờ đợi một minh chủ mới.
Được tin Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Bùi Ư Đài đã cùng với
nhiều nghĩa sĩ quê Thiên Bản tìm đường về Lam Sơn tụ nghĩa. Ông tham gia
vào đội quân khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi ngay từ những ngày
đầu gian khổ cho đến thắng lợi cuối cùng.
Tiến đánh thành Đông Quan
Năm Đinh Mùi (1427) tháng giêng, Lê Lợi tiến quân đến bờ
bắc sông Lô ( tức sông Hồng) đối diện với thành Đông Quan. Thiếu úy Lê
Khả giữ cửa Đông, Tư đồ Lê Lễ giữ cửa Nam, Thái giám Lê Chưởng đem hai
vệ thiết đột là bọn Nghi Phúc giữ cửa Tây, Thiếu úy Lê Triện đem hai vệ
quân giữ cửa Bắc vây đánh thành Đông Quan. Hạ lệnh cho các lộ, trấn chứa
lương ở các thành Xương Giang và Tam Giang để cấp cho quân lính.
Sai bọn Tư mã Tuyên Quang là Lương Thế Vinh, đề đốc phụ
đạo là Mã Tông Kế đóng thuyền chiến; sai Lạng Sơn Yên Bang tổng tư giám
quân dân sự nhập nội Thiếu bảo Lê Lựu đem quân đi đánh giặc. Lấy Hàn lâm
viện thừa chỉ học sĩ Nguyễn Trãi làm Triều liệt đại phu Nhập nội Hành
khiển Lại bộ Thượng thư kiêm Hành khu mật viện sự.
Bấy giờ vua làm lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề trên bờ sông
Lô (bấy giờ có hai cây bồ đề ở giữa nên gọi là dinh Bồ Đề- Gia Lâm, Hà
Nội) cao bằng tháp Báo Thiên, hàng ngày vua ngự trên lầu để trông vào
trong thành xem giặc làm gì, cho Nguyễn Trãi ngồi hầu ở tầng thứ hai để
vâng chỉ thảo các thư đi lại.
Ngày 13 tháng Giêng, Lê Lựu, Lê Bồi ngày đêm đánh gấp
thành Khâu Ôn, người Minh tự liệu không chống được bỏ thành chạy trốn.
Hạ lệnh cho người trong nước, ai có cha mẹ, vợ con, anh em, nô tỳ thân
thích theo giặc ở trong thành được tự nguyện trèo lên thành để nhận đem
về đoàn tụ. Nếu không tự nguyện thì theo quan luật trị tội.
Thẳng thắn khuyên can vua
Thẳng thắn khuyên can vua, dù biết lời nói, việc làm của mình là cực kỳ nguy hiểm, Bùi Ư Đài được Lê Thái Tổ rất trọng dụng.
Trông coi việc quân sự, hành chính
Tháng 3 năm Đinh Mùi (1427), vua duyệt võ ở Vĩnh Động
(nay là huyện Kim Động, Hưng Yên), cho Bùi Ư Đài làm Lễ bộ Thượng thư
kiêm tri Đông đạo quân dân tịch bạ, giúp Lê Lợi chuẩn bị xây dựng bộ máy
nhà nước độc lập.
Lê Lợi chia nước ta thành 5 đạo, cử Bùi Ư Đài kiêm trị
Đông đạo quân dân bạ tịch (trông coi công việc quân sự, hành chính ở
miền đồng bằng ven biển Bắc bộ). Năm Mậu Thân (1428), Đại Việt hoàn toàn
giải phóng, Lê Lợi chính thức lên ngôi Hoàng đế, ban thưởng quan tước
cho những tướng sĩ và những người có công trong cuộc kháng chiến chống
giặc, trong đó có Bùi Ư Đài.
Lúc này Bùi Ư Đài được chuyển sang kiêm trị Bắc đạo quân
dân bạ tịch nhằm ổn định tình hình kinh tế, chính trị xã hội vùng biên
giới phía Bắc. Bùi Ư Đài là một vị quan thanh liêm, nhân ái, đoàn kết
được các dân tộc miền núi, khiến vùng biên giới yên ổn. Sau khi ông mất
nhân dân các dân tộc vùng Lạng Giang nhớ công ơn ông đã tạc tượng lập
đền thờ thờ Bùi Ư Đài.
Bốn điều cần làm ngay
Đầu thời Lê Thái Tông (1434-1442) Bùi Ư Đài đã dâng sớ
tâu bày bốn điều cần làm ngay, giúp vua trẻ mới lên ngôi (lúc này nhà
vua mới 11 tuổi) để hưng thịnh củng cố đất nước.
Vua lên ngôi lúc còn trẻ nhưng không nhận phụ chính, mà
chỉ dựa vào một số quyền thần. Triều đình lúc bấy giờ hầu như bị Đại tư
đồ Lê Sát thao túng. Họ tìm cách phục chức cho cả bọn đã bị tiên đế Lê
Thái Tổ (Lê Lợi) từng phạt về tội vu cáo, xúi bẩy, giết hại các công
huân Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo.
Tiên đế đã căn dặn rằng không bao giờ được trọng dụng bọn
này. Nhưng Lê Sát đã khôi phục và cho họ nắm giữ lại những công việc
quan trọng trong triều chính, khiến triều đình bị rối loạn. Trước tình
hình đó, Bùi Ư Đài đã khảng khái dâng sớ tâu với vua rõ bốn điểm, nhấn
mạnh hai điểm chính cần làm ngay.
Thứ nhất, đại ý nói: Xin bệ hạ, bên trong thì nên chọn
những bậc Hoàng huynh, quốc cữu già lão, am hiểu điển xưa lưu làm Nhập
thị để khuyên răn nhắc bảo chính mình, bên ngoài thì đặt chức Sứ phó để
làm rường cột cho đất nước, chỉ huy trăm quan.
Thứ hai, đại ý nói: Các quan văn võ và quân dân trước đây
đã bị tội đồ lưu ở các nơi là tiên đế có ý trừng răn, nay lại cho về
làm quan giữ chức, thế là trái ý tiên đế, không hợp với đạo trời.
Đại tư đồ Lê Sát thấy sớ tâu trình, sợ quá liền tâu với
Vua: Tiên đế cho bọn thần là cựu thần lâu đời lại đã cùng tiên đế vất vả
gian lao ra vào nơi hiểm nguy để lập nên triều đình này. Tiên đế biết
bọn thần là hạng chất phác, hiền lành nên đến khi sắp băng đem bệ hạ ký
thác cho bọn thần.
Nay Bùi Ư Đài nói thế có ý nghi ngờ bọn thần làm bậy mà
xin bệ hạ tìm người thân thuộc khác để phòng ngừa. Xin bệ hạ giao xuống
cho ngục quan xét hỏi việc này thực hư thế nào. Nếu Ư Đài có lòng gây
chia rẽ vua tôi thì quyết đem chém không tha.
Con người hiếm có
- Con người hiếm có - là đánh giá của vua Lê Thái Tông
sau khi minh oan cho Bùi Ư Đài. Vì lời nói thẳng mà ông bị gian thần hãm
hại, phải bị lưu đày viễn xứ.
Bị lưu đày viễn xứ
Vua Thái Tông tuy còn nhỏ tuổi nhưng quyết không nghe lời
tâu của Lê Sát, nhà vua ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: Câu nói của Bùi Ư
Đài tuy có thiệt hại nhưng đâu đến nỗi như Đại tư đồ nói và đòi chém
người ta.
Nhưng Lê Sát cứ tâu đi tâu lại và cùng với một số quan
lại khác cũng có lòng đố kỵ phụ họa vào, cho rằng Bùi Ư Đài nói như vậy
là gây hiềm khích giữa vua tôi, nên khăng khăng đòi nhà vua xử nặng. Vua
Lê Thái Tông buộc phải xét xử đưa Bùi Ư Đài lưu đày viễn xứ.
Ba năm sau, Đại Tư đồ Lê Sát phạm nhiều tội lộng quyền,
bị nhà vua bãi chức trị tội. Năm Thiệu Bình thứ tư (1437) vua mới minh
oan cho các đại thần, trong đó có Bùi Ư Đài.
Chiếu minh oan của vua Lê Thái Tông có đoạn: "Lê Sát tự
chuyên giữ quyền bính, ghét người hiền, ghen người tài, giết Lưu Nhân
Chú để ra oai, truất Trịnh Khả để người ta sợ, bãi tước của Bùi Ư Đài
khiến triều đình không ai dám nói, đuổi Bùi Cầm Hồ ra nơi biên thùy,
khiến gián quan phải câm mồm.
Xem những việc làm ấy đều không phải là đạo làm tôi. Nay
muốn khép vào tội hình để tỏ rõ phép nước, song vì là đại thần cố mệnh,
có công với nước, đặc cách khoan tha, nhưng phải bãi chức tước" (Đại
Việt sử ký toàn thư). Cho Bùi Ư Đài được phục lại chức Đồng tri môn hạ
tả ty sự, tước Trí tự, lại làm chức Tham tri tây đạo quân dân bạ tịch
như cũ.
Con người hiếm có
Bùi Ư Đài làm quan trải ba triều Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông
và Lê Nhân Tông, cuối đời về hưu tại quê nhà. Ông mất ngày 22 tháng 8
năm Tân Tỵ (1461) năm Quang Thuận thứ 2 đời vua Lê Thánh Tông, thọ 79
tuổi. Vua Lê Thánh Tông truy tặng ông "Bình Ngô khai quốc bảo chính công
thần Thái phó Bình Quận công" và cho lập đền thờ ở làng Bách Cốc.
Chiếu của vua Lê Thánh Tông đánh giá công lao của Bùi Ư
Đài: "Như rồng ngâm, như hổ phục, suốt đời làm tôi trung phụng sự quân
vương, nét phượng vẻ rồng thật là con người phi thường, con người hiếm
có.
Thái phó Bình Quận công Bùi Ư Đài, như Phúc tinh ở phương
Đông, chính khí ở phương Nam, hội ngộ Lũng Nhai như duyên của cá nước,
chiến đấu ở Chi Lăng dũng mãnh như hổ báo, làm tá tướng cho vua Lê Thái
Tổ bình thiên hạ, đời vua Thái Tông được thanh bình, làm quan trải 3 đời
vua, tài kiêm văn võ, trải nghiệm qua nhiều việc lớn, lúc yên lúc nguy
có nhiều công lớn với nhà nước, cháu con cùng hưởng lợi... Nay tặng
phong Uy linh dũng lược trung đẳng thần để nêu gương sáng làm tôi thờ
vua tốt".
Thần hiệu ở đền thờ và nhà thờ họ cũng như nội dung văn
tế có ghi là: "Tiền Lê triều Uy linh dũng lược. Tam triều cố mệnh, Bình
Ngô khai quốc, Bảo Chính công thần, Thái phó Bình quận công Bùi tướng
công, húy Ư Đài, tự Doãn Trung, thụy Phúc Toàn, Đoan tức Dực bảo trung
hưng Linh phù đại vương Trung đẳng thần".
PVHTT SƯU TẦM, GIỚI THIỆU