Ông tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1936 trong Phong
trào Mặt trận bình dân. Năm 1937, ông phụ trách tổ chức Ái hữu thợ thêu,
Thanh niên dân chủ (sau này là Mặt trận phản đế) tại quê hương.
Tháng 4 năm 1939, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương
và được cử làm Thư ký Ban Thường trực Liên đoàn Lao động Hà Nội và tham
gia Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội.
Đầu năm 1940, ông bị thực dân Pháp bắt giam và kết án 7
năm tù, lưu đày qua các nhà tù Nam Định, Hà Nội, Sơn La, Hòa Bình, Chợ
Chu. Năm 1943, ông được chỉ định làm Bí thư chi bộ tại nhà tù Chợ Chu.
Tháng 8 năm 1944, ông vượt ngục khỏi nhà tù Chợ Chu về vùng Tuyên Quang,
Thái Nguyên hoạt động, được chỉ định làm Chính trị viên Đội tuyên
truyền Cứu quốc quân hoạt động ở các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang và Thái
Nguyên.
Tháng 12 năm 1944, ông được chỉ định làm Bí thư Khu căn
cứ Nguyễn Huệ. Tháng 8 năm 1945, ông được cử làm đại biểu đi dự Đại hội
quốc dân tại Tân Trào. Sau đó ông phụ trách Cứu quốc quân cướp chính
quyền tại hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang.
Sau Cách mạng tháng 8, ông là Xứ ủy viên Bắc Kỳ của Kỳ bộ Việt Minh, phụ trách liên tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang và Thái Nguyên.
Tháng 12 năm 1947, ông là Chính ủy Liên khu 10, Khu ủy viên, Bí thư Quân khu ủy.
Đến năm 1950, ông là Chính ủy khu Tây Bắc, Bí thư Ban cán sự bộ đội tình nguyện vùng Thượng Lào.
Năm 1951, ông là Chính ủy Đại đoàn 308, Bí thư Đại đoàn ủy.
Tháng 5 năm 1955, ông được giao công công tác xây dựng
quân đội chính quy và được cử làm Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, ủy
viên Tổng Quân ủy.
Năm 1959, ông được phong quân hàm Trung tướng trong đợt
phong hàm chính quy đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam (cùng được
phong Trung tướng đợt này còn có các tướng Nguyễn Văn Vịnh, Hoàng Văn
Thái, Trần Văn Trà).[1]
Tại Đại hội đại biểu toàn quốclần III (năm 1960), lần IV
(năm 1976) và lần V (tháng 3-1982) của Đảng, ông được bầu làm ủy viên
Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Ông được cử giữ chức ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương
Đảng, Trưởng ban kiểm tra Quân ủy trung ương (khóa III). Được Ban chấp
hành Trung ương cử vào Ban Bí thư (khóa IV), phân công làm Chủ nhiệm Ủy
ban Kiểm tra trung ương.
Tháng 3 năm 1961, ông được cử giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục
Chính trị (thay cho tướng Nguyễn Chí Thanh vào nam), kiêm Thứ trưởng Bộ
Quốc phòng, Phó bí thư Quân ủy trung ương.
Ông được thăng quân hàm Thượng tướng năm 1974 (vẫn cùng các tướng Hoàng Văn Thái, Trần Văn Trà).
Sau 1975, ông vẫn tiếp tục công tác trong quân đội cho đến tháng 4 năm 1982.
Khi chuyển sang công tác chính quyền, ông được phân công giữ chức Bộ trưởng Bộ Thương binh và Xã hội đến tháng 2 năm 1987.
Từ tháng 2 năm 1990 đến tháng 12 năm 1992, ông được chỉ định làm Chủ tịch lâm thời Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Ông đã được bầu làm đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa IV và khóa VI.
PVHTT sưu tầm, giới thiệu